ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía bắc Tây Nguyên trên độ cao trung bình 700 - 800 mét so với mực nước biển. Tỉnh Gia Lai trải dài từ 12°58'20" đến 14°36'30" vĩ bắc, từ 107°27'23" đến 108°54'40"kinh đông. Phía đông của tỉnh giáp với các tỉnh là Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Phía tây giáp tỉnh Ratanakiri thuộc Campuchia, có đường biên giới chạy dài khoảng 90 km. Phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, và phía phía bắc của tỉnh giáp tỉnh Kon Tum.
2. Khí hậu
Gia Lai thuộc vùng khí hậu cao nguyên nhiệt đới gió mùa, dồi dào về độ ẩm, có lượng mưa lớn, không có bão và sương muối. Khí hậu ở đây được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 22 – 250C. Vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 – 1.750 mm, Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình năm từ 2.200 – 2.500 mm. Khí hậu và thổ nhưỡng Gia Lai rất thích hợp cho việc phát triển nhiều loại cây công nghiệp ngắn và dài ngày, chăn nuôi và kinh doanh tổng hợp nông lâm nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao.
3. Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên đất: Tổng diện tích tự nhiên là 15.536,92 km2, có 27 loại đất, được hình thành trên nhiều loại đá mẹ thuộc 7 nhóm chính: đất phù sa, đất xám, đất đen, đất đỏ, đất mùn vàng đỏ, Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá. Phần lớn đất đai màu mỡ, giàu chất dinh dưỡng, đất có tầng dày canh tác rất phù hợp với phát triển cây trồng mà đặc biệt là cây công nghiệp lâu ngày. Các vùng thung lũng và khu vực đất bằng có nhiều sông suối chảy qua, thuận lợi cho việc mở rộng diện tích sản xuất đất nông nghiệp và phát triển nuôi trồng thủy sản.
- Tài nguyên nước: Gia Lai có tổng trữ lượng khoảng 23 tỉ m3, phân bố trên hệ thống các con sông lớn như: sông Sê San, sông Ba, sông Srê Pook. Tiềm năng nước ngầm có trữ lượng khá lớn, chất lượng tốt, phân bố chủ yếu trong phức hệ nước phun trào bazan có tổng trữ lượng cấp A+B là 23.894m3/ngày, cấp C1/là 61.065 m3/ngày và cấp C2 là 989.600 m3/ngày, cùng với hệ thống nước bề mặt đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân trong địa bàn tỉnh.[1]
- Tài nguyên rừng: Diện tích đất lâm nghiệp là 728.279,30 ha[2], chiếm 46,87% tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Do trải rộng trên nhiều vùng khí hậu nên các hệ sinh thái rừng Gia Lai phong phú. Hệ động thực vật phong phú và đa dạng cả về giống, loài và số lượng các thể có giá trị. Đặc biệt, có nhiều loài thú quý hiếm.
- Tài nguyên khoáng sản: tỉnh có tiềm năng khoáng sản phong phú và đa dạng. Trong đó có những loại có giá trị kinh tế cao như: Kim loại quý (quặng bôxít, vàng, sắt, kẽm), đá granít, đá vôi, đất sét, cát sỏi xây dựng…
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ XÃ HỘI
Nông - Lâm nghiệp
Gia Lai có gần 500.000 ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp, trong đó có hơn 291.000 ha đất cho trồng cây hàng năm và hơn 208.000 ha cây lâu năm nên có tiềm năng rất lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Do tính chất đặc trưng của đất đai và khí hậu, tỉnh Gia Lai có thể bố trí một tập đoàn cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng, có giá trị kinh tế cao; xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung có quy mô lớn với những sản phẩm hàng hóa có lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt, trong 7 nhóm đất chính của tỉnh, nhóm đất đỏ ba zan có 386.000ha, tập trung chủ yếu vùng tây Trường Sơn (thành phố Pleiku và các huyện Mang Yang, Đăk Đoa, Chư Sê, Chư Pưh, Chư Prông, Đức Cơ, Chư Păh, Ia Grai) có thể canh tác các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, bông vải...Các huyện, thị xã phía đông của tỉnh (An Khê, Kbang, Kông Chro, Đăk Pơ, Ayun Pa, Ia Pa, Phú Thiện, Krông Pa), do chịu ảnh hưởng khí hậu của vùng đồng bằng giáp ranh (Bình Định, Phú Yên) nên thích hợp cho các loại cây trồng ngắn ngày và là vùng nguyên liệu mía chính cung cấp cho hai nhà máy đường An Khê và Ayun Pa với công suất 4.000 tấn mía cây/năm. Riêng huyện Đăk Pơ và thị xã An Khê còn là vựa rau, hàng ngày cung cấp trên 100 tấn rau các loại cho các tỉnh thuộc khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Các huyện phía đông nam của tỉnh như Phú Thiện, Ia Pa và thị xã Ayun Pa, với lợi thế có hồ thuỷ lợi Ayun Hạ, là một trong nhữngNhap chon de phong lon hinh anh! vựa lúa của cả khu vực Tây Nguyên. Với diện tích 1.112.452,8 ha đất lâm nghiệp, trong đó, có 773.447,7 ha đất cho rừng sản xuất (chiếm 69,5% diện tích đất lâm nghiệp) nên tỉnh Gia Lai có tiềm năng lớn phát triển lâm nghiệp. Hàng năm, các sản phẩm gỗ khai thác từ rừng (kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng) làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ, bột giấy với quy mô lớn và chất lượng cao. Gia Lai còn có quỹ đất lớn để phát triển rừng trồng, rừng nguyên liệu giấy...
Công nghiệp
Trên cơ sở nguồn tài nguyên nông lâm nghiệp và khoáng sản, mở ra triển vọng phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm sản với quy mô vừa và lớn.
Trong sản xuất vật liệu xây dựng, trước hết với nguồn đá vôi tại chỗ có thể phát triển sản xuất xi măng phục vụ cho một phần nhu cầu các tỉnh phía Bắc Tây Nguyên và các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Hiện có hai nhà máy sản xuất xi măng với công suất 14 vạn tấn/năm, đến nay đã phát huy vượt công suất. Với nguồn đá granit sẵn có, phong phú về màu sắc có thể chế biến ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu.
Trong chế biến nông lâm sản, Nhap chon de phong lon hinh anh!với trữ lượng gỗ lớn trong tỉnh và khả năng nhập khẩu gỗ từ các nước Đông Nam Á đảm bảo ổn định nguyên liệu cho sản xuất chế biến các mặt hàng gỗ lâu dài, chế biến song mây, sản xuất bột giấy.
Từ mủ cao su có thể chế biến các sản phẩm cao su dân dụng và công nghiệp chất lượng cao; Chế biến cà phê xuất khẩu, chế biến đường, chế biến dầu thực vật, chế biến sắn, chế biến hoa quả và súc sản đóng hộp. Ngoài ra còn có thể phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng khi đã xác định được địa bàn và trữ lượng cho phép.
Khu công nghiệp Trà Đa với diện tích 124,5 ha, có 30 dự án đầu tư, lấp đầy trên 100% diện tích với tổng số vốn đăng ký 818 tỷ đồng. Đến nay có 21 nhà máy đã đi vào hoạt động.
Tỉnh đang quy hoạch khu công nghiệp Tây Pleiku với diện tích 284 ha (tính đến năm 2015 và mở rộng gần 400 ha tính đến năm 2020).
Ngoài ra, trên mỗi địa bàn huyện, thị xã, thành phố của tỉnh cũng đang quy hoạch xây dựng ít nhất một cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có vị trí, điều kiện thuận lợi nhiều mặt cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện dự án.
Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh với diện tích 110 ha và mở rộng đến 210 ha (tính đến 2020), hiện đã có 3 doanh nghiệp và 20 hộ kinh doanh. Đến nay cũng đang được tiếp tục đầu tư xây dựng để hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
Thủy điện
Với địa hình cao và nhiều sông suối, Gia Lai là một trong những nơi tập trung khá nhiều các nhà máy thủy điện lớn nhỏ. Trên địa bàn tỉnh hiện có 82 dự án thuỷ điện, trong đó có 7 công trình do EVN đầu tư với tổng công suất 1.841 MW:
Thuỷ điện Ia Ly: Công trình được xây dựng trên dòng sông Sê San, khởi công năm 1993 và hoàn thành vào năm 2002, là công trình thuỷ điện lớn thứ 2 của Việt Nam sau công trình thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà. Địa điểm: huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Lòng hồ thuỷ điện Ialy phần lớn nằm trên địa phận huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, thuộc lưu vực sông Pô Kô và Đắk Bla, công suất thiết kế 720 MW. Sản lượng điện bình quân hàng năm: 3,7 tỷ KWh.
Thủy điện Sê San 3: Công trình được xây dựng trên dòng sông Sê San thuộc địa phận xã Ia Mnông, huyện Chư Pă h, tỉnh Gia Lai và xã Ia Ly, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum với công suất lắp đặt là 260 MW, sản lượng điện trung bình hàng năm 1,127 tỉ KWh. Thời gian thi công: 2002 - 2006.Nhap chon de phong lon hinh anh!
Thủy điện Sê San 3A: là công trình cấp II với công suất lắp máy là 180MW, điện lượng trung bình hàng năm là 479,3 triệu KWh/năm. Công trình được xây dựng tại xã Mơ Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum và xã Ia Khai, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Khởi công ngày 05/04/2003, hoàn thành: tháng 29/12/2006.
Thủy điện Sê San 4: Công trình được xây dựng trên dòng sông Sê San, gồm 3 tổ máy với tổng công suất 360 MW, sản lượng điện cung cấp lên lưới quốc gia 1,5 tỷ KWh/năm, được khởi công vào ngày 26,/11/2004, hoàn thành tháng 4/2010.
Thuỷ điện Sông Ba Hạ: nằm ở bậc thang cuối cùng trên bậc thang sông Ba – là một trong những thủy điện lớn nhất của miền Trung được quy hoạch trên địa bàn 15 xã miền núi thuộc hai huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên) và huyện Krông Pa (tỉnh Gia Lai). Công trình được xây dựng nằm cách tỉnh lỵ Phú Yên chừng 70 cây số về phía tây. Nhà máy thủy điện sông Ba Hạ có hai tổ máy với công suất 220MW, sản lượng điện trung bình 825 triệu KWh/năm. Thời gian hoàn thành công trình: 2004 - 2009. Ngoài cung cấp điện, công trình thuỷ điện sông Ba Hạ còn tham gia cắt lũ và cung cấp nước tưới cho vùng hạ lưu, góp phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực 2 tỉnh Phú Yên và Gia Lai.
Thuỷ điện An Khê - Ka Nak: Thủy điện sông Ba, nằm trên địa phận huyện Kbang, thị xã An Khê và huyện Tây Sơn (tỉnh Bình Định). Với tổng công suất lắp máy là 173 MW, điện lượng trung bình 701,5 triệu kWh /năm, thủy điện An Khê-Ka Nak có nhiệm vụ chính là phát điện, đồng thời tham gia hạn chế lũ, tạo nguồn nước cho sông Kôn, điều tiết nước cho lưu vực sau đập An Khê.
Dự án do EVN làm chủ đầu tư; tư vấn thiết kế chính là Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1. Thiết bị cơ điện và dịch vụ kỹ thuật do nhà thầu Dongfang Electric Corporation (Trung Quốc) cung cấp; các thiết bị cơ khí thủy công và dịch vụ kỹ thuật được cung cấp bởi liên doanh nhà thầu trong nước bao gồm: Công ty cổ phần Cơ điện miền Trung (CEMC)- đại diện liên doanh, Công ty cổ phần Cơ khí Điện lực (PEC), Công ty Cơ điện Thủ Đức (EMC), Tổng Công ty Máy và Thiết bị công nghiệp (MIE), Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1 (PECC1).
Thuỷ điện Sê San 4A: Đây là công trình nằm dưới cùng của hệ thống bậc thang thủy điện trên sông Sê San, được xây dựng tại xã Ia O (huyện Ia Grai) gồm 3 tổ máy, có tổng công suất 63 MW, với tổng số vốn gần 1.559 tỷ đồng. Sáng 15-7-2011, tổ máy số 1 của nhà máy thủy điện Sê San 4A đã chính thức phát điện hòa lưới quốc gia sau một thời gian hiệu chỉnh và chạy thử, tổ máy số 2 phát điện vào cuối tháng 8-2011 và ngày 3-11 tổ máy số 3 đã chính thức đượckích hoạt hòa vào lưới điện quốc gia tổ máy số 3 của công trình nhà máy thủy điện do Công ty đầu tư. Sau khi hoàn thành và đưa vào khai thác, bình quân mỗi năm nhà máy sẽ cung cấp cho lưới điện quốc gia trên 300 triệu kWh.
Công trình thủy điện Sê San 4A do Công ty cổ phần Thủy điện Sê San 4A làm chủ đầu tư được khởi công xây dựng vào tháng 3-2008. Ngoài ra, Gia Lai đã có nhiều chính sách thu hút các nhà đầu tư để xây dựng 75 công trình thủy điện vừa và nhỏ với tổng công suất lắp máy gần 494,9 MW, trong đó 21 thuỷ điện đang vận hành với tổng công suất 57,215 MW, 17 thuỷ điện đã khởi công xây dựng với tổng công suất 208,29 MW, 27 thuỷ điện chưa khởi công với tổng công suất 200,5 MW, 10 thuỷ điện đã đưa vào quy hoạch.
Du lịch - Dịch vụ
Xuất phát từ điều kiện địa lý, là vùng núi cao có nhiều cảnh quan tự nhiên cũng như nhân tạo, nên Gia Lai có tiềm năng du lịch rất phong phú. Gia Lai là đầu nguồn của hệ thống sông Ba đổ về miền duyên hải Trung Bộ và hệ thống sông Sê San đổ về Cam-pu-chia cùng nhiều sông, suối lớn nhỏ khác. Gia Lai còn có nhiều hồ, ghềnh thác, đèo và những cánh rừng nguyên sinh tạo nên những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng, mang đậm nét hoang sơ nguyên thủy của núi rừng Tây Nguyên. Đó là rừng nhiệt đới Kon Ka Kinh và Kon Chư Răng nơi có nhiều động vật quí hiếm; thác Xung Khoeng hoang dã ở huyện Chư Prông; thác Phú Cường thơ mộng ởDu lịch trên lưng voi huyện Chư Sê. Nhiều danh thắng khác như suối Đá, bến Mộng trên sông Pa ở Ayun Pa, Biển Hồ (hồ Tơ Nưng) trên núi mênh mông và phẳng lặng, được ví như là đôi mắt của thành phố Pleiku. Nhiều núi đồi như Cổng Trời MangYang, núi Hàm Rồng cao 1.092m ở Chư Prông mà đỉnh là miệng của một núi lửa đã tắt. Cảnh quang nhân tạo có các rừng cao su, đồi chè, cà phê bạt ngàn. Kết hợp với các tuyến đường rừng, có các tuyến dã ngoại bằng thuyền trên sông, cưỡi voi xuyên rừng, trekking...
Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là Jrai và Bahnar thể hiện qua kiến trúc nhà rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và nhạc cụ...Các lễ hội đặc sắc ở Gia Lai: lễ Pơ Thi (Bỏ Mả), lễ hội đâm trâu, ...trang phục ngày hội được trang trí hoa văn nhiều màu sắc thần bí, các điệu múa xoang, múa dân gian trên nền âm thanh vang vọng của các loại nhạc cụ riêng của từng dân tộc như cồng chiêng, tù và, đàn Trưng, đàn đá... Đến Gia Lai du khách còn được xem những khu nhà mồ dân tộc với những bức tượng đủ loại và những nghi lễ theo tín ngưỡng đa thần còn đậm nét nguyên thủy.
Thêm vào đó, Gia Lai có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng hào hùng được thể hiện qua các di tích lịch sử văn hóa như khu Tây Sơn thượng đạo, di tích căn cứ địa của anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ; làng kháng chiến Stơr quê hương của anh hùng Núp, nhà lao Pleiku. Nhiều địa danh chiến trường xưa của như Pleime, Cheo Reo, Ia Răng, Đăk Pơ, Ka Nak đã đi vào lịch sử.
Những điểm du lịch, khu vui chơi giải trí trong thành phố Pleiku có hồ Diên Hồng, công viên Đồng xanh, khu du lịch và lễ hội Về Nguồn, công viên Lý Tự Trọng, quảng trường 17/3, sân vận động, rạp chiếu phim và rất nhiều quán cà phê mà vô tình hay hữu ý đã tập trung thành phố như phố cà phê trên đường Wừu. Có rất nhiều thác quanh thành phố như thác Phú Cường, thác Lồ Ô, thác Chín tầng,...thuận lợi cho du khách tham quan, thưởng ngoạn.
Kết cấu hạ tầng
Đường bộ:
Án ngữ trên đỉnh cao nguyên Pleiku hùng vỹ, Gia lai như nóc nhà của đồng bằng Bình Định, Phú Yên, Cam Pu Chia và là giao điểm của nhiều tuyến đường quốc lộ quan trọng với tổng chiều dài 503 km.
Quốc lộ 14, chạy theo hướng bắc - nam, là con đường huyết mạch của Tây nguyên, nối Gia Lai với Kon Tum, Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng về phía Bắc và Đắk Lắk, Đắk Nông, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ về phía Nam, đoạn qua tỉnh Gia Lai dài 112 km.
Quốc lộ 19 chạy theo hướng đông - tây, nối cảng Quy Nhơn, Bình Định dài 180Km về phía đông với cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh (Đức Cơ) để vào tỉnh Ratanakiri,Campuchia về phía tây. Phần đường quốc lộ 19 trên đất Gia Lai dài 196 km. Quốc lộ quan trọng này được hình thành trên cơ sở con đường giao thương cổ nhất giữa bộ phận dân cư ở vùng đồng bằng ven biển nam Trung Bộ với các tỉnh bắc Tây Nguyên từ trước thế kỷ XX.
Quốc lộ 25 nối quốc lộ 1 (thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên) với quốc lộ 14 tại Mỹ Thạch (huyện Chư Sê). Đoạn quốc lộ 25 thuộc địa bàn tỉnh Gia Lai có chiều dài 111 km, qua các huyện đông nam của tỉnh như Krông Pa, thị xã Ayun Pa, Phú Thiện và phía đông Chư Sê.
Ngoài ra, đường Hồ Chí Minh cũng đi qua địa bàn tỉnh Gia Lai. Các quốc lộ 14, 25 nối Gia Lai với các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung rất thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa đến hải cảng để xuất khẩu và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.
Gia Lai còn có 11 tuyến tỉnh lộ quan trọng với tổng chiều dài 473 km:
Tỉnh lộ 662 (76km), từ quóc lộ 19 tại Đá Chẻ (huyyện Đăk Pơ), đi về phía nam, nối vào quốc lộ 25tại phía tây thị xã Ayun Pa.
Tỉnh lộ 663 (23 km) từ quốc lộ 19 nối dài (đoạn Bàu Cạn) chạy qua huyện Chư Prông, nối vào tỉnh lộ 675 tại Phú Mỹ (huyện Chư Sê).
Tỉnh lộ 664 (53 km), từ quốc lộ 14 tại thành phố Pleiku qua huyện Ia Grai, hướng về phía tây, nối vào quốc lộ 14C tại sông Sê San.
Tỉnh lộ 668 (17 km), từ quốc lộ 25, đi về phía nam thị xã Ayun Pa, huyện Phú Thiện đi về tỉnh Đăk Lăk.
Tỉnh lộ 669 (90 km) từ quốc lộ 19 tại thị xã An Khê, đi về phía bắc dọc theo huyện Kbang và huyên Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Tỉnh lộ 670 (46 km), từ quốc lộ 19 tại Kon Dỡng (huyện Mang Yang) nối và quốc lộ 14 đoạn qua xã Ia Khươl (huyện Chư Păh nơi tiếp giáp giữa tỉnh Gia Lai và tinh Kon Tum).
Tỉnh lộ 671 (24 km) từ quốc lộ 14, đoạn qua ngả tư Biển Hồ nối và tỉnh lộ 670 tại xã Nam Yang, huyện Đăk Đoa.
Tỉnh lộ 672 (29 km) là đường vành đai thành phố Pleiku.
Tỉnh lộ 673 (23 km), từ quốc lộ 14, tại thị trấn Phú Hoà, huyện Chư Păh vào nhà máy thuỷ điện Ia Ly.
Tỉnh lộ 674 (32 km) nối từ quốc lộ 19 tại trung tâm thị xã An Khê đến huyện Kông Chro.
Tỉnh lộ 675 (60 km), từ quốc lộ 19 tại thành phố Pleiku nối vào quốc lộ 14C tại Ia Men.
Hiện nay, tất cả các tuyến đường xuống các trung tâm huyện đã được trải nhựa, hầu hết các trung tâm xã đã có đường ôtô đến.
Đường hàng không
Sân bay Pleiku (còn gọi là sân bay Cù Hanh) là một sân bay tương đối nhỏ, có từ thời Pháp, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km. Sân bay Pleiku đang hoạt động, mỗi tuần có 7 chuyến từ Pleiku đi thành phố Hồ Chí Minh - Đà Nẵng - Hà Nội và ngược lại. Sân bay đang được đầu tư nâng cấp để tiếp nhận các máy bay lớn (A320).
Bưu chính - Viễn thông - Truyền hình
Toàn tỉnh có 07 trạm điều khiển thông tin di động. Hệ thống các mạng điện thoại di động đảm bảo thông tin thông suốt; dịch vụ điện thoại, Internet 3G đã được đưa vào sử dụng.
Trên địa bàn tỉnh, ngoài các kênh truyền hình miễn phí, hiện đã có 3 loại dịch vụ truyền hình trả tiền; tỉnh cũng đang xúc tiến đưa sóng truyền hình Gia Lai lên vệ tinh.
Hệ thống nhà hàng, khách sạn: Toàn tỉnh có 1 khách sạn 4 sao, 1 khách sạn 3 sao, 3 khách sạn 2 sao, 4 khách sạn 1 sao và hàng loạt nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ khác cơ bản đáp ứng được nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi, đi lại của du khách.
Điều kiện xã hội:
Các đơn vị hành chính
Gia Lai có 17 đơn vị hành chính, bao gồm: Thành phố Plieku, Thị xã An Khê, Thị xã Ayun Pa và 14 huyện. Thành phố Plieku là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và là trung tâm thương mại của tỉnh, nơi hội tụ của 2 Quốc lộ chiến lược của vùng Tây Nguyên là Quốc lộ 14 theo hương Bắc Nam và Quốc lộ 19 theo hướng Đông Tây; là điều kiện thuận lợi để giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với vùng Duyên hải Nam Trung bộ, cả nước và Trung tâm khu vực tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia.
Dân số và lao động
Dân số trung bình năm 2009 của tỉnh là 1.227.400 người, trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm 44,46%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,68%năm.
Mật độ dân cư phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã và các trục đường giao thông như thành phố Plieku là 758 người/km2 , thị xã An Khê 330 người/km2 . Còn các vùng sâu, vùng xa dân cư thưa thớt, mật độ thấp như: huyện Kông Chro 27 người/ km2, huyện Krông Pa 40 người/ km2.
Nguồn lao động có 711.680 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 653.140 người chiếm 92% tổng nguồn lao động là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Giáo dục và Đào tạo:
Sự nghiệp Giáo dục – đào tạo được các cấp, các ngành và toàn xã hội quan tâm; tỷ lệ xã đạt phổ cập trung học cơ sở là 92,8%; toàn tỉnh đầu năm học 2009-2010 có 340.400 học sinh; có 723 trường học, 230 trường tiểu học, 230 trường trung học cơ sở, 39 trường trung học phổ thông và 01 trường tiểu học – trung học cơ sở - trung học phổ thông Nguyễn Văn Linh mới đi vào hoạt động. Ngoài ra toàn tỉnh có 5 trường trung cấp , cao đẳng chuyên nghiệp và phân hiệu Đại học Nông Lâm của thành phố Hồ Chí Minh, đến nay đã có 6 ngành đào tạo với khả năng đào tạo hàng năm 500-600 sinh viên.
Y tế
Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh không ngừng được củng cố và phát triển, từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường về số lượng và đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ; hiện nay đã có 5 bác sĩ/1 vạn dân; 48,2% trạm y tế xã có bác sĩ; các chương trình y tế quốc gia được triển khai có hiệu quả nên dịch bệnh giảm nhiều. Thực hiện chủ trương xã hội hóa, công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai đang xây dựng bệnh viện chất lượng cao với quy mô 200 giường và khánh thành vào năm 2010.
Văn hóa – Thể dục thể thao
Công tác xây dựng đời sống văn hóa hướng về cơ sở được đẩy mạnh. Nhiều phong trào văn hóa, văn nghệ, các cuộc thi liên hoan, hội diễn văn nghệ được tổ chức. Nhiều sự kiện văn hóa tiêu biểu được tổ chức như: Đại hội đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên, lễ đón bằng của UNESCO công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là “ Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại” và đã tổ chức thành công Festival cồng chiêng quốc tế lần thứ Nhất tại tỉnh Gia Lai.
Các hoạt động thể dục thể thao được tổ chức sôi nổi, thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, phong trào thể dục thể thao quần chúng tiếp tục mở rộng theo hướng xã hội hóa bằng nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với điều kiện cụ thể, công tác xã hội hóa hoạt động thể dục thể thao được đẩy mạnh.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Trong bối cảnh phải đối mặt với những khó khăn, thách thức ở trong nước và trên thế giới như cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường; an ninh chính trị còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp... Song, trong giai đoạn2005-2010 tỉnh Gia Lai đã tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
I- Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 2005 - 2010:
1. Kinh tế đạt được những kết quả quan trọng, các nguồn lực được phát huy, các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển.
- Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 13,6%/năm, vượt 1,1% so với mục tiêu đã đề ra. Đến năm 2010, quy mô nền kinh tế gấp 3,24 lần so với năm 2005; GDP bình quân đầu người đạt 14,54 triệu đồng, gấp 2,82 lần so với năm 2005, gấp 0,68 lần so với mục tiêu đã đề ra.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, đến nay tỷ trọng nông- lâm nghiệp chiếm 39,84%, công nghiệp- xây dựng chiếm 32,08%, dịch vụ chiếm 28,07%; so với đầu nhiệm kỳ tỷ trọng nông- lâm nghiệp giảm 8,66%, công nghiệp- xây dựng tăng 8,6%, dịch vụ tăng 0,58%.
- Các vùng kinh tế được đầu tư, phát triển theo quy hoạch.
Vùng động lực như thành phố Pleiku, thị xã An Khê, thị xã Ayun Pa, huyện Chư Sê được chú trọng đầu tư bằng nhiều nguồn vốn nên tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch nhanh và tích cực. Công nghiệp chế biến, thương mại- dịch vụ, kết cấu hạ tầng tiếp tục phát triển. Thành phố Pleiku được công nhận là đô thị loại II, huyện Ayun Pa được chia tách thành lập thị xã Ayun Pa.
Vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng được tăng cường đầu tư lồng ghép bằng nhiều nguồn vốn, 12 xã nghèo ở 3 huyện vùng căn cứ cách mạng: Kbang, Kông Chro và Krông Pa triển khai đầu tư phát triển, tập trung vào các mục tiêu chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cấp và cải thiện các công trình kết cấu hạ tầng chủ yếu, khai thác tiềm năng về đất đai, phát triển sản xuất, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
2. Lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được những kết quả quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên.
- Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đầu tư và phát triển.
Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và đạt được một số kết quả quan trọng. Quy mô các bậc học, ngành học và hệ thống trường lớp tăng nhanh. Chất lượng giáo dục được nâng lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp tăng đều qua các năm; nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục trung học cơ sở đạt mục tiêu đề ra; tỷ lệ huy động trẻ em đi học ở lứa tuổi mẫu giáo đạt trên 96%, ở lứa tuổi tiểu học đạt trên 97%. Giáo dục nghề có bước phát triển, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên qua các năm, đến nay đạt 30%, vượt 3% so với mục tiêu đề ra. Cơ sở vật chất được tăng cường, các chương trình quốc gia về giáo dục được triển khai tích cực. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập và xã hội hóa giáo dục đạt những kết quả quan trọng. Đội ngũ giáo viên được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu dạy và học.
Hoạt động khoa học và công nghệ được quan tâm, đã chú trọng nghiên cứu triển khai và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững quốc phòng- an ninh. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng.
- Công tác chăm sóc sức khỏe và phòng - chống dịch bệnh cho nhân dân đạt được một số kết quả tích cực.
Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe được quan tâm, nhất là các đối tượng thuộc diện chính sách và người nghèo. Công tác giám sát, phòng - chống dịch bệnh được triển khai đồng bộ, hiệu quả, không để xảy ra dịch lớn. Các chương trình quốc gia về y tế thực hiện có kết quả, các bệnh xã hội, dịch bệnh đều giảm; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm 8% so với năm 2005; tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm chủng đủ liều đạt 95%, đạt mục tiêu đề ra. Hệ thống y tế được củng cố và tăng cường, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang - thiết bị y tế được đầu tư phục vụ tốt hơn yêu cầu khám - chữa bệnh cho nhân dân. Chất lượng dịch vụ y tế, kể cả y học hiện đại và y học cổ truyền được nâng lên. Đội ngũ cán bộ y tế tăng về số lượng và chất lượng, đến nay đạt 5,2 bác sĩ/vạn dân; tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ đạt 60%. Chủ trương xã hội hóa y tế được chú trọng triển khai.
- Văn hóa - thông tin, thể dục thể thao phát triển và ngày càng nâng cao về chất lượng.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng làng văn hóa được triển khai có hiệu quả. Công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc đạt được một số kết quả tích cực. Nhiều sự kiện văn hóa có ý nghĩa về chính trị - xã hội và nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh được tổ chức thành công, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi trong cộng đồng các dân tộc trong tỉnh.
Các hoạt động báo chí, phát thanh truyền hình, xuất bản phát triển đa dạng, chất lượng ngày càng được nâng lên, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị. Báo Gia Lai, Đài Phát thanh-Truyền hình đã có nhiều chuyên trang, chuyên mục phong phú và chất lượng, nhất là đã tăng số lượng, thời lượng và chất lượng các ấn phẩm, chuyên mục bằng tiếng Bahnar, Jrai. Văn học nghệ thuật không ngừng phát triển, đã có một số tác phẩm văn học, nghệ thuật đạt giải trong và ngoài nước.
Các hoạt động thể dục thể thao thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, phong trào thể dục thể thao tiếp tục mở rộng, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư theo hướng xã hội hóa. Tỷ lệ dân tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đạt 25%, tăng 6,5% so với năm 2005.
- Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên.
Chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt, GDP bình quân đầu người năm 2010 gấp 2,82 lần so với năm 2005. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều kết quả quan trọng; đã huy động có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các nguồn lực vì mục tiêu giảm nghèo, nên tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 29,8% (năm 2005) xuống còn 10,8% (năm 2010), vượt 8,2% so với mục tiêu đề ra. Số lao động được giải quyết việc làm 2,2 vạn người/năm và xuất khẩu lao động được 3.160 người.
Thực hiện chính sách với người và gia đình có công với cách mạng, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả thiết thực. Đời sống vật chất, tinh thần và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng khá hơn; 100% xã có điện thoại, đạt 20 thuê bao cố định/100 dân; 100% thôn, làng, 95% số hộ được dùng điện; 80% dân cư nông thôn dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 95% số hộ được xem truyền hình; gần 100% số hộ được nghe Đài Tiếng nói Việt Nam; 85% hộ gia đình văn hóa, 75% thôn, làng, tổ dân phố văn hóa.
Thực hiện chính sách dân tộc đạt được một số kết quả quan trọng. Đã huy động nhiều nguồn lực, lồng ghép nhiều chương trình mục tiêu, dự án, ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bộ mặt nông thôn chuyển biến tích cực; đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt được quan tâm giải quyết; nhà ở tạm bợ, dột nát giảm nhanh. Đến nay 99,2% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số được định canh định cư, mặt bằng dân trí được nâng lên; đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ được quan tâm đào tạo. Văn hóa truyền thống của các dân tộc được gìn giữ và phát huy; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết, làm mất ổn định chính trị - xã hội của các thế lực thù địch, an ninh - quốc phòng được giữ vững.
- Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được chú trọng.
Công tác quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản ngày càng nền nếp hơn, hạn chế được lãng phí, thất thoát tài nguyên thiên nhiên. Công tác điều tra cơ bản, quy hoạch cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường đạt được những kết quả bước đầu. Công tác thanh tra, kiểm tra về tài nguyên môi trường đã góp phần ngăn chặn và hạn chế các vi phạm xảy ra. Việc xử lý ô nhiễm môi trường được chú ý hơn. Công tác phòng tránh và khắc phục hậu quả thiên tai được quan tâm chỉ đạo và đã hạn chế được nhiều thiệt hại do bão lũ gây ra. Nhận thức về bảo vệ môi trường của các tầng lớp nhân dân và các doanh nghiệp được nâng lên.
Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện các nhiệm vụ giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020
Bước vào giai đoạn 2010-2015, tỉnh Gia Lai đang đứng trước những thuận lợi, thời cơ lớn, nhưng cũng đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ đan xen, đó là: Trên thế giới, sau khủng hoảng, kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn nhiều yếu tố rủi ro, bất trắc, tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... diễn biến phức tạp tiếp tục tác động đến nước ta.
Trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, thế và lực của đất nước trên trường quốc tế không ngừng lớn mạnh. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế - xã hội của nước ta còn thấp; chênh lệch giàu nghèo còn lớn và có xu hướng tăng; tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn nghiêm trọng; các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá nhằm gây mất ổn định chính trị- xã hội... Đây là những nguy cơ, thách thức lớn đối với đất nước ta trong những năm tới.
Kế thừa những thành tựu đã đạt được, những kinh nghiệm từ thực tiễn, tranh thủ tối đa tiềm năng và lợi thế, huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển là những nhân tố thuận lợi cơ bản trong thời gian tới. Nhưng Gia Lai vẫn đang đối mặt với những khó khăn thách thức đó là quy mô nền kinh tế còn nhỏ, sức cạnh tranh và hội nhập nền kinh tế còn thấp, các lợi thế so sánh dần dần bị thu hẹp, khoảng cách về kinh tế - xã hội giữa các vùng ngày càng lớn, an ninh chính trị và trật tự xã hội còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp... Đòi hỏi cả hệ thống chính trị phải đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu vượt qua khó khăn thách thức để hội nhập, phát triển, giữ vững ổn định về chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc trong tỉnh.
I- Phương hướng tổng quát
Tiếp tục huy động mọi nguồn lực, khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư với các địa phương trong nước và nước ngoài để phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xây dựng tỉnh Gia Lai thành một tỉnh phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, ổn định quốc phòng - an ninh, tiến tới trở thành vùng năng động trong khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.
II- Mục tiêu của giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020
1. Mục tiêu định hướng đến năm 2020.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 11,7% trở lên. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ, nông - lâm nghiệp.
Tăng nhanh về quy mô, tốc độ, chất lượng, hiệu quả và tăng cường sức cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa giáo dục, chăm sóc sức khỏe, tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Phấn đấu giảm nhanh hộ nghèo, thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Tăng cường quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
2. Mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 2010 - 2015.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 12,8% trở lên. Coi trọng hiệu quả kinh tế, phát triển chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên trong quá trình phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng mạnh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Tiếp tục phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng kết hợp giữa mở rộng quy mô với nâng cao chất lượng cây trồng, vật nuôi. Phát triển các ngành công nghiệp chế biến, dịch vụ và xuất khẩu một cách hiệu quả, bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống. Phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Phấn đấu đến năm 2015 Gia Lai thoát khỏi tỉnh nghèo và GDP bình quân đầu người đạt mức trung bình của cả nước. Nâng cao dân trí, chú trọng bồi dưỡng nhân tài và tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi người dân được hưởng thụ các dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao, chăm sóc sức khỏe và tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng cao. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ. Từng bước thực hiện công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Một số chỉ tiêu chủ yếu: Phấn đấu đến năm 2015: Quy mô GDP theo giá hiện hành đạt 48.500 tỷ đồng (tính theo giá so sánh năm 1994 đạt 12.300 tỷ đồng); GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt 34,2 triệu đồng (tương đương với 1.622 USD) gấp 2,35 lần năm 2010 (tính theo giá so sánh năm 1994 gấp 1,6 lần). Cơ cấu GDP: Ngành nông - lâm nghiệp chiếm 33%, ngành công nghiệp-xây dựng chiếm 36,7%, dịch vụ chiếm 30,3%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 4.900 tỷ đồng, gấp 2,13 lần so với năm 2010. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 250 triệu USD. Độ che phủ của rừng (gồm cả cây cao su) đạt 53,1%. Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,29%. Giải quyết việc làm cho 2,3 vạn lao động/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%. Xây dựng 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 100% xã hoàn thành quy hoạch nông thôn mới, thu nhập dân cư nông thôn tăng 1,5 lần so với hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo trong nông thôn còn 2,4%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 2% (theo tiêu chí hiện nay). Số xã có bác sĩ đạt 80%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 20%; hầu hết các hộ đều được sử dụng điện, được xem truyền hình; 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
III- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:
1. Phát triển nông - lâm nghiệp toàn diện theo hướng bền vững, giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Phấn đấu giá trị sản xuất ngành nông - lâm nghiệp tăng bình quân 6,2%/năm. Triển khai rà soát, bổ sung quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành và quy hoạch chi tiết các loại cây trồng, nhất là cây công nghiệp. Phát triển nông-lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Xây dựng các mô hình sản xuất tập trung gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm và các mô hình sản xuất phù hợp với đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục chuyển đổi rừng nghèo, diện tích đất trống và đất nông nghiệp hiệu quả thấp sang trồng cao su để đến năm 2015 tổng diện tích cây cao su của tỉnh đạt 122.500 ha. Mở rộng diện tích cây tiêu đến năm 2015 đạt 5.300 ha. Áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp; đặc biệt chú trọng ứng dụng tiến bộ công nghệ sinh học trong chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Phát triển quy mô đàn gia súc, đẩy mạnh chương trình lai cải tạo đàn bò, nạc hóa đàn heo, phát triển đàn dê và đàn gia cầm. Khuyến khích phát triển các trang trại chăn nuôi theo mô hình công nghiệp và giết mổ gia súc tập trung. Đồng thời nghiên cứu bảo tồn các nguồn gen động vật và thực vật hiện có trên địa bàn tỉnh.
Giữ vững diện tích rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ để góp phần bảo đảm cân bằng sinh thái. Phát triển toàn diện, bền vững cả 3 loại rừng, tăng diện tích rừng trồng và độ che phủ của rừng. Phấn đấu đến năm 2015 trồng mới 20.700 ha rừng. Tiếp tục thực hiện chương trình xã hội hóa nghề rừng, đẩy mạnh giao khoán rừng, quản lý bảo vệ rừng.
2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp - xây dựng nhằm góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phấn đấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 16,9%/năm. Tập trung phát triển, hiện đại hóa những ngành công nghiệp có lợi thế so sánh và tác động mạnh đến sự phát triển nhanh, bền vững như: Công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng (thủy điện, phong điện, năng lượng mặt trời), khai khoáng sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí.
Phát triển mạnh các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, phục vụ sản xuất và chế biến các sản phẩm nông - lâm nghiệp có lợi thế của tỉnh như cao su, cà phê, hồ tiêu...; sản xuất phân bón, thức ăn gia súc; đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp. Phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp, nông thôn một cách hiệu quả. Tạo điều kiện cho các ngành tiểu - thủ công nghiệp phát triển. Tiếp tục đầu tư phát triển các khu - cụm công nghiệp ở các huyện, thị xã.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh và áp dụng các chính sách ưu đãi, thu hút vốn đầu tư vào tỉnh nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng các hoạt động hợp tác đầu tư cả trong nước và nước ngoài, nhất là thị trường các tỉnh đông bắc Campuchia và hạ Lào.
3. Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dịch vụ đạt 14,9%. Xây dựng hệ thống thương mại - dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, mở rộng quan hệ hợp tác, đầu tư giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh. Phát triển các siêu thị, trung tâm thương mại, chợ và hợp tác xã cung ứng dịch vụ trên địa bàn tỉnh, mở rộng mạng lưới thương mại ở vùng sâu, vùng xa.
Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa xuất khẩu, nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp và chất lượng sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng chủ lực của tỉnh trên thị trường thế giới. Vận dụng các chính sách phù hợp để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu và khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng truyền thống vào các thị trường mới.
Chú trọng phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế, theo hướng hiện đại như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, công nghệ thông tin, giao thông vận tải. Khuyến khích và hỗ trợ phát triển các dịch vụ giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, thể thao; dịch vụ việc làm và an sinh xã hội. Tích cực kêu gọi đầu tư, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển các loại hình du lịch, nhất là du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, lịch sử phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Nâng cao chất lượng hoạt động của các loại hình du lịch hiện có và phát triển mạnh các loại hình mới. Mở rộng hợp tác liên kết du lịch giữa Gia Lai với các tỉnh, thành trong nước và các nước trong khu vực.
4. Huy động vốn đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng.
Huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư. Phấn đấu đạt tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm đến khoảng 67.700 tỷ đồng, tăng bình quân 18,2%/năm. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư, tiếp tục cải tiến thủ tục đầu tư, tăng cường tính minh bạch trong việc triển khai thi hành các chính sách quản lý kinh tế nhằm tranh thủ tối đa các nguồn vốn đầu tư; phát triển năng lực sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là đầu tư vào các ngành tạo sản phẩm có hàm lượng tri thức, khoa học và công nghệ cao, các sản phẩm thu hút nhiều lao động và các địa bàn khó khăn. Xây dựng các giải pháp đồng bộ, có hiệu quả để cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh (PCI) trong thời gian đến.
Hình thành cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông, thủy lợi, điện, cấp thoát nước, tăng mức đầu tư cho các vùng động lực, các ngành có lợi thế nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ưu tiên vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế... và lồng ghép nhiều nguồn vốn đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Xây dựng, mở rộng, nâng cấp các tuyến đường tỉnh, đường huyện kết nối với các trục đường quốc gia. Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống giao thông tại các đô thị, các khu công nghiệp, các điểm du lịch và giao thông nông thôn.
Tiếp tục phát triển hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới cho trên 50.000 ha cây trồng các loại. Đầu tư xây dựng đồng bộ các công trình thủy nông, nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp bền vững. Đồng thời, huy động các nguồn lực phát triển thủy lợi vừa và nhỏ theo hướng kiên cố hóa. Kết hợp phát triển thủy lợi với phát triển sản xuất, dịch vụ đa ngành như cấp nước cho sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản, phát triển thủy điện nhỏ, bảo vệ môi trường sinh thái.
Khai thác có hiệu quả các dự án thủy điện đã đầu tư, nhanh chóng triển khai các dự án thủy điện đã quy hoạch. Việc phát triển thủy điện phải đặc biệt chú ý đến những tác động tiêu cực đối với môi trường, đảm bảo các yêu cầu về tái định canh, tái định cư cho nhân dân thuộc diện phải di dời, đảm bảo cấp nước sản xuất cho vùng hạ lưu và phòng - chống lũ lụt. Phát triển thí điểm đầu tư sản xuất điện từ năng lượng gió, năng lượng mặt trời ở những nơi có điều kiện. Tiếp tục mở rộng hệ thống lưới điện quốc gia đến tất cả các thôn, làng trong tỉnh.
Nâng cấp và đầu tư mở rộng hệ thống cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho các đô thị, các khu - cụm công nghiệp và khu dân cư tập trung. Đồng thời, tập trung xây dựng hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý rác thải ở các đô thị và các khu-cụm công nghiệp.
5. Tăng cường khai thác các nguồn thu, tiết kiệm chi ngân sách; tiếp tục mở rộng và hiện đại hóa hoạt động tín dụng ngân hàng.
Nâng dần tỷ lệ tự cân đối ngân sách; tăng chi cho đầu tư phát triển, đảm bảo nguồn chi thực hiện cải cách tiền lương, chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân và các chính sách an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý tài chính, ngân sách cho giai đoạn 2011 - 2015 theo quy định của Luật Ngân sách. Khai thác tốt các nguồn thu, thực hiện tiết kiệm chi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách.
Mở rộng mạng lưới kinh doanh của các ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách và hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân. Tiếp tục đổi mới, hiện đại hóa hoạt động ngân hàng. Tích cực huy động nguồn vốn tại chỗ, tranh thủ nguồn vốn ủy thác, vốn điều hòa từ trung ương để đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu vốn tín dụng đầu tư theo hướng mở rộng đầu tư cho kinh tế dân doanh và tập trung cho các ngành công nghiệp, dịch vụ, phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
6. Phát triển các thành phần kinh tế.
Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý, đăng ký kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục chỉ đạo củng cố, phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức, mà nòng cốt là hợp tác xã. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ đối với các thành phần kinh tế nhằm nâng cao năng lực quản lý, kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân và khu vực dân doanh phát triển sản xuất kinh doanh, đóng góp ngày càng nhiều cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
7. Phát triển các vùng trong tỉnh.
- Vùng động lực: Triển khai lập dự án điều chỉnh quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết thành phố Pleiku, trên cơ sở đó tập trung đầu tư xây dựng để đề nghị nâng cấp thành phố Pleiku lên đô thị loại I trước năm 2020, xứng tầm là trung tâm chính trị, kinh tế - văn hóa của tỉnh, có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, công nghiệp và dịch vụ phát triển. Xây dựng đô thị Cửa khẩu Quốc tế Lệ Thanh - Đức Cơ thành vùng động lực và tiếp tục đầu tư vào các vùng động lực đã xác định như thị xã An Khê, thị xã Ayun Pa, huyện Chư Sê về hạ tầng kinh tế - xã hội bảo đảm các tiêu chí của đô thị loại IV. Tập trung phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ và nông nghiệp. Xây dựng các cụm công nghiệp sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, gắn kết vùng động lực với các vùng lân cận.
- Vùng vành đai kinh tế: Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông thông suốt giữa các huyện, thị xã; phát triển cây công nghiệp, rừng nguyên liệu, công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, phát triển công nghiệp khai thác khoáng sản và chế biến nông - lâm sản.
- Vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng: Chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Khai thác có hiệu quả tài nguyên đất, tài nguyên rừng. Đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn như giao thông, thủy lợi, khai hoang xây dựng đồng ruộng và các công trình văn hóa xã hội. Phát triển du lịch sinh thái, du lịch lịch sử, văn hóa. Tiếp tục huy động các nguồn vốn đầu tư và lồng ghép nhiều chương trình mục tiêu của nhà nước để thúc đẩy kinh tế - xã hội của các xã phát triển nhanh, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Ổn định định canh định cư, từng bước chuyển biến phương thức canh tác, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, nâng cao dân trí, cải thiện điều kiện ăn, ở, vệ sinh, phòng - chống dịch bệnh.
8. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về dân số - kế hoạch hóa gia đình, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nâng cao chất lượng dân số, phát huy vai trò của gia đình trong xã hội. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông - lâm nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Phát triển dịch vụ việc làm, tăng cường xuất khẩu lao động. Nâng cao năng lực giới thiệu việc làm; thực hiện tốt mục tiêu đào tạo nghề, nhất là dạy nghề ở nông thôn; tổ chức công tác thông tin việc làm, sàn giao dịch việc làm ở một số địa bàn trọng điểm để đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của thị trường lao động.
Lồng ghép và triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án hỗ trợ người nghèo và tăng cường đầu tư các nguồn lực cho công tác giảm nghèo. Tổ chức cuộc vận động thay đổi nếp nghĩ, cách làm, tập quán trong lao động sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số, để đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng. Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành, nghề. Thực hiện tốt chương trình định canh, định cư, sắp xếp bố trí lại dân cư nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân gắn với công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Đa dạng hóa các loại hình trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội, triển khai bảo hiểm thất nghiệp. Tiếp tục vận động “Toàn dân tham gia công tác đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần cho những người có công với cách mạng, người cao tuổi, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
9. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ.
Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa chương trình, chuẩn hóa giáo viên. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho ngành Giáo dục. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý, phương pháp dạy và học; chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên; triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục. Mở rộng giáo dục mầm non, đến năm 2015 bảo đảm 99% trẻ em 5 tuổi được học mẫu giáo. Thực hiện tốt chương trình phổ cập giáo dục ở các ngành học, cấp học. Từng bước thu hẹp khoảng cách về chất lượng dạy và học giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục.
Thành lập trường phổ thông dân tộc nội trú khu vực ở An Khê, Ayun Pa. Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện. Thành lập Trường Đại học Gia Lai và chuyển đổi Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai thành Trường Cao đẳng Gia Lai thực hiện nhiệm vụ đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Nâng cấp một số trường trung cấp chuyên nghiệp có đủ điều kiện thành cao đẳng chuyên nghiệp. Xây dựng trường cao đẳng nghề và trung tâm dạy nghề ở một số huyện. Củng cố và thành lập mới các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện. Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng. Chú trọng xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học, ngành học. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, phát triển hệ thống giáo dục dân lập, tư thục và xây dựng xã hội học tập.
Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tập trung cho việc ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, vật liệu mới... Khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ và đầu tư công nghệ cao. Triển khai các chương trình hỗ trợ chuyển đổi công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh. Hỗ trợ phát triển công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Tăng cường ứng dụng và chuyển giao những tiến bộ khoa học và công nghệ về nông thôn. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Thu hút nguồn nhân lực khoa học, thu hút nhân tài để nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và tổng kết thực tiễn, cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ việc hoạch định chính sách phát triển trên địa bàn tỉnh.
10. Phát triển y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Phát hiện sớm, điều trị kịp thời các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có thể gây ra dịch. Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu về y tế, giảm tỷ lệ mắc các bệnh sốt rét, lao, viêm phổi trẻ em, loại trừ bệnh phong, uốn ván trẻ sơ sinh, nhanh chóng dập tắt các ổ dịch, phòng - chống bệnh dại có hiệu quả. Tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe, vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân, trước hết là vệ sinh an toàn thực phẩm; ngăn chặn hiểm họa HIV/AIDS, phòng - chống và ngăn ngừa lây lan các loại dịch cúm trong cộng đồng.
Đầu tư nâng cấp hệ thống khám - chữa bệnh và y tế dự phòng. Tập trung đầu tư xây dựng một số bệnh viện chuyên khoa như nhi, chấn thương chỉnh hình, phong và da liễu, nâng cấp bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến huyện. Từng bước hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đầu tư theo chuẩn quốc gia các trạm y tế xã, phường, thị trấn. Nâng cao trình độ chuyên môn và y đức cho đội ngũ cán bộ y tế. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ có chuyên môn cao cho ngành Y tế, ứng dụng chuyên môn kỹ thuật y học hiện đại, y học cổ truyền, ứng dụng công nghệ thông tin trong khám -chữa bệnh.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, mở rộng mạng lưới y tế dân lập, y dược tư nhân gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, gia đình chính sách. Đẩy lùi tiêu cực trong công tác khám - chữa bệnh cho nhân dân.
11. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể thao
Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Thực hiện nếp sống văn hóa mới, nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; đẩy lùi hủ tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội. Tiếp tục làm tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, quảng bá một số hoạt động văn hóa của các dân tộc thiểu số ở trong nước và ngoài nước; trong đó tập trung nghiên cứu, chuẩn bị tốt cả về nội dung và hình thức tổ chức để Festival Cồng chiêng Quốc tế trở thành thương hiệu của tỉnh. Xúc tiến quy hoạch, xây dựng khu di tích lịch sử văn hóa vùng căn cứ cách mạng của tỉnh; đồng thời trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa khác. Khuyến khích học tập, nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản và giới thiệu di sản văn hóa các dân tộc.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động về văn hóa, thể thao ở những vùng có điều kiện. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động văn hóa, thể thao. Chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao ở tỉnh và cấp huyện; xây dựng nhà văn hóa ở các xã, phường, thị trấn; xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng ở các thôn, làng, tổ dân phố để phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Phát triển phong trào thể dục thể thao ở các cấp, các ngành; tăng cường đào tạo vận động viên; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ vận động viên thể thao thành tích cao.
Phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ, văn học nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho đội ngũ văn nghệ sĩ, nghệ nhân trong hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật.
Nâng cao chất lượng báo chí, phát thanh truyền hình đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân dân. Tăng thời lượng phát sóng truyền thanh, truyền hình bằng tiếng Bahnar, Jrai. Tiếp tục củng cố tổ chức, bộ máy các cơ quan báo chí, truyền thông, tạo mọi điều kiện để các cơ quan này hoạt động có hiệu quả.
12. Bảo vệ và khai thác hợp lý tài nguyên, chú trọng cải thiện môi trường sinh thái.
Bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường. Quản lý chặt chẽ và khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, khoáng sản theo hướng phát triển bền vững. Phấn đấu 100% dân cư thành thị và 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Tăng cường công tác kiểm tra việc xử lý nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hiểm đối với môi trường ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp, bệnh viện. Triển khai có hiệu quả chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là chống lụt bão, chống lũ quét trong mùa mưa, hạn hán trong mùa khô. Xây dựng và triển khai các đề án bảo vệ môi trường; xây dựng hệ thống thông tin và báo cáo môi trường, truyền thông môi trường; làm tốt công tác đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư. Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
13. Tăng cường quốc phòng - an ninh và bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” trong tình hình mới. Không ngừng củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh toàn diện, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ổn định chính trị.
Thực hiện tốt các chương trình quốc gia phòng - chống tội phạm, chú trọng phòng-chống tội phạm ma túy và tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em; kiềm chế tiến tới làm giảm sự gia tăng của tội phạm hình sự, tai nạn giao thông và các tệ nạn xã hội khác. Đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp, trọng tâm là kiện toàn đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng hoạt động khởi tố điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Source: Cổng thông tin điện tử tỉnh Gia Lai