Để đạt được các mục tiêu chung mang tính dài hạn nêu trên, trong những năm trước mắt cần hợp tác triển khai một số dự án tạo đà cho các tỉnh trong Tam giác phát triển vượt qua trạng thái kém phát triển hiện nay, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, ổn định an sinh xã hội. Các dự án hợp tác phải trên cơ sở đồng thuận của cả ba nước; ưu tiên các lĩnh vực về hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển nông, lâm nghiệp; du lịch; thương mại; giáo dục đào tạo; và có tính khả thi cao.
Tam giác phát triển campuchia - Lào - Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển song chủ yếu ở dạng tiềm năng. Những khó khăn chính hạn chế sự phát triển là cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu vốn, trình độ dân trí thấp. Do điều kiện giao thông vận tải khó khăn, khu vực tương đối biệt lập với bên ngoài nên hạn chế sự tiếp xúc với thị trường, khoa học và công nghệ. Khu vực biên giới là nơi sinh sống của các dân tộc ít người, tập quán canh tác nông nghiệp đốt rừng làm rẫy, việc khai thác rừng bừa bãi đã làm giảm nhanh chóng diện tích rừng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái.
Kinh tế của Tam giác phát triển chủ yếu là thuần nông-lâm, trình độ phát triển giữa các tỉnh khá chênh lệch song nhìn chung vẫn ở mức thấp. Các tỉnh Tây Nguyên của Việt Nam mức phát triển có cao hơn, tuy nhiên tỷ trọng nông lâm nghiệp trong GDP năm 2002 vẫn chiếm khoảng 63,5%, GDP bình quân đầu người mới chỉ đạt trên 215 USD. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, các tỉnh nằm trong Tam giác phát triển chỉ có thể phát triển được nếu được sự hỗ trợ từ bên ngoài. Để tạo đà phát triển, sự hỗ trợ này cần liên tục, đủ mức để các tỉnh trong khu vực phát huy được nội lực của mình, chủ động hợp tác cùng phát triển.
Trong tương lai, toàn khu vực sẽ có hai khả năng phát triển đặc trưng cho hai xu hướng: tiệm tiến và có yếu tố đột biến. Xu hướng tiệm tiến tương ứng với giả thiết các tỉnh trong Tam giác phát triển chủ yếu dựa trên chính sách của mỗi quốc gia và từ nội lực của mỗi quốc gia là chính. Theo xu hướng này, tổng sản phẩm của các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong một thời gian dài nữa, quyết định mức tăng trưởng bình quân của toàn Tam giác phát triển, theo ước tính sơ bộ khoảng trên 8%/năm.
Trong điều kiện chủ trương hợp tác của ba nước được hiện thực hoá, tạo nên những yếu tố mang tính đột biến, mức tăng trưởng bình quân của toàn Tam giác phát triển sẽ cao hơn nhất là khi điểm xuất phát còn thấp. Tuy nhiên trong những năm đầu mức tăng trưởng bình quân chung của Tam giác phát triển không vượt quá nhiều so với mức 9%.
1. Kịch bản phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tương lai của Tam giác phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phải tính đến sự cố gắng của từng địa phương trong Tam giác phát triển và sự năng động trong hợp tác phát triển. Để có được những đánh giá định lượng về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tếcủa các địa phương trong Tam giác phát triển, nhóm yếu tố sau đây được xem xét để xây dựng các kịch bản phát triển:
Các yếu tố ngoại lực: bao gồm các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài (các nhà tài trợ quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài) và các nguồn vốn mà chính phủ ba nước campuchia,Lào, Việt Nam đầu tư cho khu vực Tam giác phát triển; các cơ chế chính sách của ba nước nhằm tăng cường, thúc đẩy việc khai thác các nguồn lực như chính sách về đầu tư, về tín dụng, về điều kiện qua lại biên giới…
Các yếu tố nội lực: bao gồm tiềm năng phát triển, lợi thế so sánh của các địa phương, điều kiện về tài nguyên, lao động, nguồn vốn của các tỉnh.
Căn cứ lượng hoá các yếu tố nội và ngoại lực dựa trên những tài liệu sau:
- Đối với các tỉnh Đông Bắc Campuchia:
Dựa trên tư liệu do tỉnh Rattanakiri và StungTreng, các Bộ ngành Trung Ương của Vương quốc Campuchia; số liệu của các tổ chức quốc tế.
- Đối với các tỉnh Nam Lào:
Dựa trên quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của CHDCND Lào đến 2020; quy hoạch của tỉnh Attapư và Sekông và các tài liệu do phía Lào cung cấp.
- Đối với các tỉnh Tây Nguyên:
Căn cứ theo định hướng phát triển trong văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội2001-1010); các mục tiêu phát triển đã được Đại hội Tỉnh Đảng bộ Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon Tum thông qua; Đề án phát triển kinh tế – xã hội Tây Nguyên đến năm 2010; Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội (đã bổ sung, rà soát) của các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum; và thực trạng phát triển kinh tế – xã hội của Tây Nguyên trong những năm vừa qua.
KỊCH BẢN I:
- Các tỉnh trong Tam giác phát triển ngoài nguồn vốn đầu tư của mỗi quốc gia còn thu hút được thêm từ nguồn bên ngoài để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng (chủ yếu cho các tỉnh của Campuchia và Lào) trong giai đoạn đến năm 2010.
- Các tỉnh trong khu vực Tam giác phát triển thực hiện các quy hoạch đề ra cho địa phương cũng như các định hướng đã được dự kiến trong các kế hoạch mỗi nước. Mức hợp tác còn mang tính tự phát giữa các tỉnh.
KỊCH BẢN II:
- Về các yếu tố ngoại lực như kịch bản I;
- Các yếu tố nội lực tương tự như kịch bản I, song hợp tác phát triển ở mức cao hơn trong các ngành công nghiệp chế biến, hợp tác xây dựng vùng nguyên liệu, khai khoáng, sản xuất nông nghiệp, thương mại, du lịch.
Căn cứ trên hai kịch bản này, xu thế tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu các địa phương ba nước như sau:
Về tăng trưởng
Đơn vị: %
|
KỊCH BẢN I
|
KỊCH BẢN II
|
|
2003-
2005
|
2006-
2010
|
2003-
2010
|
2003-
2005
|
2006-
2010
|
2003-
2010
|
Các tỉnh của Campuchia
|
6,7
|
8,0
|
7,4
|
7,4
|
8,7
|
8,1
|
Các tỉnh của Lào
|
7,0
|
7,5
|
7,3
|
8,0
|
8,5
|
8,3
|
Các tỉnh của Việt Nam
|
8,0
|
8,5
|
8,3
|
8,5
|
9,4
|
9,0
|
Tam giác phát triển
|
7,9
|
8,3
|
8,1
|
8,4
|
9,4
|
9,0
|
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đơn vị: %
|
KỊCH BẢN I
|
KỊCH BẢN II
|
|
2002
|
2010
|
2002
|
2010
|
Các tỉnh của Campuchia
|
100
|
100
|
100
|
100
|
- Nông lâm thuỷ sản
|
68,6
|
55,6
|
68,6
|
53,6
|
- Công nghiệp, xây dựng
|
17,3
|
27,1
|
17,3
|
29,0
|
- Dịch vụ
|
14,1
|
17,3
|
14,1
|
17,4
|
Các tỉnh của Lào
|
100
|
100
|
100
|
100
|
- Nông lâm thuỷ sản
|
67,2
|
53,9
|
67,2
|
50,6
|
- Công nghiệp, xây dựng
|
19,8
|
30,0
|
19,8
|
31,6
|
- Dịch vụ
|
13,1
|
16,1
|
13,1
|
17,8
|
Các tỉnh của Việt Nam
|
100
|
100
|
100
|
100
|
- Nông lâm thuỷ sản
|
63,5
|
51,9
|
63,5
|
49,5
|
- Công nghiệp, xây dựng
|
13,4
|
23,1
|
13,4
|
24,2
|
- Dịch vụ
|
23,1
|
25,0
|
23,1
|
26,3
|
2. Định hướng phát triển lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Tập trung phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng kết nối các địa phương trong Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước và liên kết khu vực Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước với bên ngoài.
2.1. Phát triển mạng lưới giao thông
Tập trung đầu tư xây dựng các trục giao thông chính nối Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước với trung tâm kinh tế, chính trị của mỗi nước như:
-Các tuyến trục nối khu vực Tam giác phát triển với trung tâm chính trị và kinh tế của mỗi nước và các quốc gia khác trong khu vực như quốc lộ 13S, quốc lộ 18B (Lào); quốc lộ 7 (Cămpuchia); quốc lộ 14, 1A (Việt Nam).
-Các tuyến trục nối Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước với các cảng biển Việt Nam như các quốc lộ 78 nối với quốc lộ 19 ra cảng Quy Nhơn, quốc lộ 25 ra cảng Vũng Rô; quốc lộ 18B nối với quốc lộ 40, đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 14B, quốc lộ 24 ra cảng Đà Nẵng và Dung Quất.
-Các tuyến trục liên kết giữa các địa phương khác trong vùng và từ các trục giao thông chính đến các trung tâm phát triển kinh tế và phát triển dân cư đô thị của vùng.
-Phát triển mạng lưới đường nông thôn, đường dân sinh.
a) Các tỉnh Campuchia:
- Xây dựng tuyến đường 78 xuất phát từ ngã ba Ô Pong Maon, thuộc tỉnh Stung Treng qua Bưng Lung (tỉnh Rattanakiri) đến biên giới Campuchia – Việt Nam, dài 198 km. Giai đoạn 1 xây dựng đoạn từ Bưng Lung đến biên giới Campuchia – Việt Nam dài 70 km. Giai đoạn II sẽ hoàn thành xây dựng toàn tuyến.
- Nâng cấp tuyến đường 7 từ Kratie qua Stung Treng đến biên giới Campuchia - Lào dài 198 km, sau này tuyến tiếp tục đi về phía Phnôm Pênh và nối vào đường Xuyên á đi Băng Cốc (Thái Lan).
- Xây đựng tuyến đường 78A xuất phát từ tuyến đường Bưng Lung-Voeun Sai-biên giới với Lào nối vào đường 1J của Lào dài 93 km, hiện đang được nghiên cứu để nâng cấp đi đôi với việc bảo vệ rừng của khu vực này.
- Xây đựng tuyến đường 76 xuất phát từ Bưng Lung đến tỉnh lỵ tỉnh Mondolkiri, dài 75 km.
- Xây đựng tuyến đường 76A xuất phát từ Bưng Lung qua Ta Veng, qua Phum Chang đến Ocheng nối tiếp đến ngã ba biên giới Việt Nam- Lào- Campuchia, dài 160km. Hiện nay đã có 40 km là đường đất (Bưng Lung - Ta Veng). Đoạn còn lại là đường mòn.
Dự kiến sẽ xây dựng sân bay mới ở Rattanakiri tại một địa điểm ở "Ka Le" trên quốc lộ 78A cách xa 14km về phía Tây thị xã Bưng Lung hoặc một địa điểm khác ở "Ô Chông" cách thị xã Bưng Lung 14 km về phía Nam. Nâng cấp sân bay ở Strung Treng.
b) Các tỉnh của Lào:
Tập trung hoàn chỉnh xây dựng các tuyến đường 13,18Bđạt đường cấp III đồng bằng và Cấp IV miền núi, đã khởi công xây dựng từ 27 tháng 11 năm 2002 dự kiến hoàn thành vào năm 2005.
Tuyến đường 18A đi qua 2 tỉnh Attapư và Champasak. Tuyến đi từ Phia Phay (quốc lộ 13) tỉnh Champasak qua Sanamxai đến tỉnh lỵ Attapư, nối với đường 18B và đường 16, dài 115 km. Tuyến đường này đang được Chính phủ Nhật Bản đưa vào kế hoạch tài trợ để đầu tư.
Tuyến đường 16 đi qua 2 tỉnh Attapư và SêKông nối từ tỉnh lỵ Attapư đến tỉnh lỵ Sekong dài 76 km dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2004.
Tuyến đường 16A đi qua 2 tỉnh Champasak và Sekong. Tuyến từ U Bon (Đông Bắc Thái Lan) qua Paske (quốc lộ 13), Thateng đến Sekong, (Lào), đoạn Pakse – Sekong dài 139 km.
Tuyến đường 16B từ Sekong đến biên giới Việt Nam. Tuyến từ tỉnh lỵ Sekong qua Đak Trưng đến biên giới Lào - Việt Nam (cửa khẩu biên giới tỉnh Quảng Nam), dài 115 km. Tuyến này đã được Malaixia đầu tư với số vốn 33 triệu USD và hoàn thành vào năm 2006, sẽ nối với quốc lộ 14D, 14B của Việt Nam ra cảng Đà Nẵng.
Tuyến đường 13 phần thuộc tỉnh Champaksak. Tuyến từ Paske đến biên giới tỉnh Champasak (Lào) với tỉnh Stung Treng (Campuchia), dài 160 km, sẽ nối với đường 7 tỉnh Stung Treng và tỉnh Kratie (Campuchia).
Tuyến đường 1J từ Mường Mây đến biên giới Cămpuchia (Rattanakiri) dài 90 km.
c) Các tỉnh của Việt Nam:
Việt Nam đang tập trung cải tạo nâng cấp các tuyến trục, từng bước phát triển đường giao thông vào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, trong đó công trình quan trọng nhất là đường Hồ Chí Minh Bắc- Nam cùng với các tuyến đường nhánh, các tuyến nối với các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, các tuyến nhánh nối các trục chính với các điểm dân cư và vùng sản xuất hàng hoá, tạo điều kiện để phát triển các vùng khó khăn, căn cứ kháng chiến và vùng có vị trí chiến lược trọng yếu.
Trong những năm trước mắt xây dựng giai đoạn I đường Hồ Chí Minh (đoạn qua phía Tây vùng Tây Nguyên), nâng cấp quốc lộ 20, 24, 25. Thông xe 2 mùa toàn tuyến quốc lộ 14C; quốc lộ 40 theo tiêu chuẩn cấp 3 miền núi (đã hoàn thành năm 2003), nối với quốc lộ 18B của Lào... Nâng cấp các tuyến tỉnh lộ, phấn đấu 80% hệ thống tỉnh lộ được rải mặt thảm nhựa theo tiêu chuẩn cấp 5 miền núi; vĩnh cửu hoá 100% các cầu cống trên tuyến tỉnh lộ. Nhựa hoá 70% các tuyến giao thông liên huyện được đầu tư theo tiêu chuẩn cấp 4 miền núi. Các tuyến giao thông liên xã được đầu tư theo tiêu chuẩn đường giao thông nông thôn loại A, trong đó nhựa hoá 30%, trải cấp phối đá dăm 70%. Phấn đấu 100% xã có đường ô tô vào trung tâm cụm xã vào cuối năm 2005. Nâng cấp 2 sân bay Buôn Mê Thuột và PleiKu đáp ứng cho nhu cầu vận chuyển của vùng.
2.2- Phát triển viễn thông
Đẩy nhanh tốc độ phát triển bưu chính viễn thông của toàn bộ các tỉnh trong khu vực Tam giác phát triển với công nghệ hiện đại: Số hoá, cáp quang hoá, tự động hoá, tin học hoá, bằng kỹ thuật số quang học với những công nghệ tiên tiến để có những dung lượng lớn, tốc độ cao đồng thời cập nhật kịp thời những công nghệ mới đang trên đà phát triển nhanh chóng.
Phát triển mạng bưu chính viễn thông từ tỉnh lỵ đến các huyện, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt từ tỉnh đến huyện và các bản làng. Xây dựng mạng bưu chính ở tất cả các huyện trong các tỉnh, đảm bảo có các đường liên lạc từ huyện đến xã. Phát triển mạng thuê bao đến các xã, phát triển mạng thông tin di động trên toàn lãnh thổ các tỉnh của Việt Nam và các đô thị của các tỉnh của Campuchia và Lào.
Về bưu chính
Tăng cường phát triển mạng bưu cục, đại lý và điểm bưu điện - văn hoá chất lượng cao và rộng khắp trên địa bàn các tỉnh trong Tam giác phát triển. Xây dựng, mở rộng các bưu cục tại các huyện, nâng cấp các điểm bưu điện xãđể đưa nhiều loại hình dịch vụ vào phục vụ. Tăng cường trang bị máy móc, thiết bị khai thác tự động bưu chính, thực hiện tin học hoá mạng bưu chính đến cấp huyện được nối mạng. Tăng cường trang bị phương tiện vận chuyển để chuyên ngành hoá đường thư cấp 2 và cấp 3. Mở rộng phát hành báo chí kể cả về phạm vi, danh mục và sản lượngbáo, phát chuyển báo với thời gian ngắn nhất. Triển khai các dịch vụ mới như tài chính bưu chính (séc bưu chính, bảo hiểm bưu chính, mua hàng qua bưu điện...) thanh toán qua bưu chính (các dịch vụ viễn thông, truyền hình cáp,...).
Về viễn thông
Phát triển hiện đại hoá mạng lưới viễn thông: Tiếp tục đầu tư phát triển và hiện đại hoá mạng lưới viễn thông, nâng cao chất lượng truyền dẫn và chuyển mạch, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt phục vụ tốt công tác an ninh quốc phòng, đáp ứng thông tin liên lạc của các ngành kinh tế - xã hội và nhu cầu giao lưu tình cảm của nhân dân. Xây dựng và phát triển mạng viễn thông theo hướng hiện đại, đồng bộ và rộng khắp. Cung cấp đa dạng các dịch vụ chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế đến mọi khu vực có nhu cầu, phổ cập dịch vụ internet. Về các mạng dịch vụ viễn thông khác: Mở rộng vùng phủ sóng mạng điện thoại di động tại các thành phố đến các khu vực lân cận. Mở rộng mạng nhắn tin phục vụ rộng khắp trong toàn vùng. Tăng thêm điện thoại công cộng. Tiếp nhận, quản lý, khai thác mạng thông tin vệ tinh (VINASAT) phục vụ viễn thông, phát thanh, truyền hình, khí tượng thuỷ văn cho toàn bộ khu vực Tam giác phát triển.
2.3 Phát triển công nghiệp điện và mạng lưới điện
Nghiên cứu khả thi lưới điện trung thế từ biên giới Việt Nam tới Bưng Lung, tỉnh Rattanakiri và từ biên giới Lào tới tỉnh Stung Treng. Hợp tác xây dựng lưới điện trung thế được kết nối giữa 3 quốc gia dọc theo đường 18 của Lào, đường 78 của Campuchia, và đường 19, 40 của Việt Nam (2006-2010).
Khảo sát, nghiên cứu và xây dựng các nhà máy thuỷ điện quy mô vừa và nhỏ tại các tỉnh trong Tam giác phát triển (2006-2010). Nghiên cứu khả thi chương trình hợp tác năng lượng, điện và thuỷ điện ở lưu vực sông Sesan, thúc đẩy Uỷ ban quản lý sông Sesan tiếp tục nghiên cứu phạm vi chiều dài, chiều rộng của sông Sesan và chỉ đạo nghiên cứu đánh giá tác động môi trường (EIA) cho vùng hạ lưu sông phía Campuchia (2004-2005). Khảo sát cơ bản về địa chất và khoáng sản nhằm xây dựng bản đồ địa chất và khoáng sản cho các vùng biên giới trong Tam giác phát triển (2004-2005). Cải tạo hồ chứa nước của nhà máy thuỷ điện O Chum, tỉnh Rattanakiri (2004-2005).
Xây dựng đập thuỷ điện Nam Kong 1 có công suất 240 MW để phục vụ nội tỉnh và xuất đi Campuchia, Việt Nam. Xây dựng đập thuỷ điện Phu Của để phục vụ trong tỉnh và khu vực cửa khẩu Lào - Việt Nam. Xây dựng thuỷ điện Sekaman 3 có công suất 240 MW; thuỷ điện Sekong 5 có công suất 253 MW; thuỷ điện Sekong 4 có công suất 440 MW; thuỷ điện suối Lămphănnhây có công suất 65 MW.
Xây dựng các công trình thủy điện tại Việt Nam: D’ray H’ling II, Đắk R’Tih, Ea Súp, Buôn kốp, Chư pông krông, Sêrêpôk III...(Đắk Lắk); thuỷ điện PlêiKrong, Thượng Kon Tum và hệ thống thuỷ điện vừa và nhỏ như thuỷ điện Sa Thầy, ĐăkAKôi, Măng Bút, Đăk Ne... (Kon Tum);thuỷ điện Ry Ninh IIsông suất 8.100 KW; thuỷ điện Sê San 3 công suất lắp đặt 273 MW; Sê San 3A công suất 100 MW; Sê San 4 công suất lắp đặt: 330 MW; Iađrăng I công suất 600 KW; H'chan sông suất 10 MW; Ayunpa giữa công suất 3.600 KW (Gia Lai). Triển vọng liên kết hệ thống điện Việt Nam hợp nhất với hệ thống điện các nước Lào, Cămpuchia và Thái Lan thông qua hợp tác quy hoạch thuỷ điện sông Mê Kông.
2.4. Phương hướng phát triển thuỷ lợi
Vùng các tỉnh Đông Bắc Campuchia: So với các tỉnh khác trong khu vực, công tác thuỷ lợi ở các tỉnh đông bắc Cămpuchia hiện tại rất yếu kém. Phần lớn diện tích canh tác hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào nước trời nên năng suất cây trồng rất thấp (nhất là lúa nước) và không ổn định. Do vậy phát triển thuỷ lợi ổn định nước tưới là vấn đề cần được ưu tiên hàng đầu để đẩy mạnh sự nghiệp phát triển sản xuất nông nghiệp và giải quyết nhu cầu sử dụng nước, phòng chống lũ... của các ngành kinh tế xã hội. Phương hướng phát triển thuỷ lợi từ nay đến 2010 là: Tập trung đầu tư khôi phục các công trình hiện có để đưa vào sử dụng có hiệu quả (hầu hết các công trình hiện có không còn khả năng tưới).Triển khai công tác nghiên cứu điều tra cơ bản về nguồn nước và xây dựng quy hoạch phát triển thuỷ lợi trên địa bàn các tỉnh làm cơ sở lập kế hoạch đầu tư những năm tiếp theo.Hỗ trợ và khuyến khích các hộ gia đình, các bản cùng tham gia đầu tư phát triển hệ thống các công trình thuỷ lợi nhỏ (nhất là ở các vùng miền núi vùng sâu vùng xa). Tập trung đầu tư một số công trình thuỷ lợi trọng điểm (sau khi có quy hoạch) để mở rộng diện tích được tưới để thâm canh tăng vụ nâng cao sản lượng lương thực hàng hoá cung cấp cho vùng thiếu lương thực. Tăng cường và hướng dẫn các biện pháp khai thác nguồn nước ngầm để cung cấp thêm nước tưới cho cây công nghiệp, nhất là vùng cao nguyên Rattanakiri.
Vùng các tỉnh Nam Lào: Đầu tư phát triển thuỷ lợi có ý nghĩa quyết địnhđể mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ đảm bảo an ninh lương thực và tạo địa bàn sản xuất cho công tác định canh định cư ổn định cuộc sống cho đồng bào vùng cao. Tuy vậy công tác thuỷ lợi cho đến nay vẫn chưa được đầu tư thoả đáng, diện tích được tưới còn rất ít và hiệu quả sử dụng thấp, đặc biệt là tỉnh Sekong còn chưa có điều tra cơ bản về nguồn nước và khả năng phát triển thuỷ lợi để chuẩn bị kế hoạch đầu tư.
Riêng tỉnh Attapư theo quy hoạch thuỷ lợi năm 1998 (Viện Quy hoạch thuỷ lợi Việt Nam xây dựng), tổng số công trình thuỷ lợi dự kiến theo quy hoạch là 38 công trình, gồm 28 trạm bơm, 6 đập dâng và 4 hồ chứa. Ngoài ra còn dự kiến phát triển 3218 giếng khoan phục vụ cho nhu cầu nước sinh hoạt và tưới một phần cho cây trồng cạn.
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Trong những năm tới cần chuyển hướng đầu tư ưu tiên các công trình tưới cây công nghiệp nhất là cây cà phê và hồ tiêu. Tu bổ các công trình hiện có đưa công suất huy động từ 50% hiện nay lên 70 - 80% năng lực thiết kế, tiết kiệm nước và mở rộng diện tích tưới. Chuẩn bị tốt về kỹ thuật một số công trình ở vùng khó khăn vừa phục vụ dân cư tại chỗ vừa phục vụ đón dân từ các tỉnh ngoài đến theo dự án ổn định dân xây dựng vùng kinh tế mới. Nghiên cứu khai thác nguồn nước ngầm phục vụ sinh hoạt và chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Song song với việc đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi tưới trực tiếp cần nghiên cứu các hình thức và giải pháp tưới tiết kiệm nước như tưới ẩm, tưới phun... để hạn chế tác hại của thiên tai, hạn hán. Nâng cấp và hoàn thiện các công trình đã xuống cấp, nhất là hệ thống kênh mương cấp I, II. Tăng cường công tác kiên cố hoá kênh mương nhằm hạn chế tổn thất nước, cần xem đây là biện pháp quan trọng vì trong mùa khô trên vùng đất bazan sự mất nước trên kênh là rất lớn. Phương hướng quy hoạch phát triển thuỷ lợi ba tỉnh này gồm 478 công trình, trong đó có 327 hồ chứa, 120 đập dâng và 31 trạm bơm. Năng lực thiết kế tưới tổng số khoảng gần 400 nghìn ha.
3- Định hướng phát triển về Giáo dục - đào tạo
Tăng cường nguồn lực của mỗi nước cho phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao trình độ dân trí. Tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước là vùng nghèo, kém phát triển của mỗi quốc gia nên các quốc gia cần ưu tiên chi ngân sách Nhà nước để phát triển mạnh lĩnh vực đào tạo.
Mở rộng quy mô đào tạo giáo viên, trước hết là giáo viên tiểu học và chuẩn bị số lượng cần thiết cho cấp trung học cơ sở. Có chính sách ưu đãi đối với những cán bộ, giáo viên nhận công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc.
Thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục có chọn lọc. Nhằm phát huy truyền thống, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và đội ngũ thày giáo sẵn có và để tạo điều kiện thuận lợi và mở rộng cơ hội cho nhân dân được đi học, hỗ trợ và khuyến khích nhà chùa ở Cămpuchia và Lào mở trường/lớp dạy chữ và đạo đức cho học sinh.
Chú trọng phát triển giáo dục dân tộc, mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống trường dân tộc nội trú tỉnh/huyện, các loại hình bán trú dân nuôi ở các xã, thôn bản và phum sóc nhằm duy trì và thu hút trẻ em nghèo, con em dân tộc đi học nhằm tạo nguồn đào tạo cán bộ ở các cấp cao hơn. Có chính sách ưu đãi (học bổng) đủ sức thu hút học sinh người dân tộc vào học các trường dạy nghề Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học.
Kết hợp xây dựng trường/lớp học với thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng tại xã (đối với Việt Nam), tại thôn bản, phum sóc hoặc cụm thôn bản/phum sóc (tại Campuchia và Lào).
Trong những năm trước mắt, định hướng chung cho tất cả các tỉnh trong Tam giác phát triển là tập trung đào tạo lao động kỹ thụât phục vụ phát triển nông-lâm nghiệp và công nghiệp chế biến nông-lâm sản. Do cơ cấu cây trồng, vật nuôi tương đối giống nhau nên cùng với đào tạo theo những hình thức và phương pháp truyền thống của mỗi địa phương, sự hợp tác dựa trên tiềm năng sẵn có và rất thuận lợi. Mục tiêu của đào tạo là trang bị kiến thức và chuyển giao công nghệ về đầu tư thâm canh, thực hiện sự kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp và những kiến thức, kỹ năng về công nghệ chế biến sản phẩm của các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, điều, dược liệu (sa nhân), và các loại cây công nghiệp ngắn ngày như bông, mía... và chế biến lâm sản (chế biến đồ gỗ gia dụng, trồng nguyên liệu và sản xuất bột giấy...). Đào tạo, tập huấn và chuyển giao công nghệ, kỹ năng về phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm... trên cơ sở lấy chăn nuôi gia đình là chính nhằm tạo ra nguyên liệu thịt, da... phục vụ công nghiệp chế biến.
Đối với các ngành công nghiệp - xây dựng - dịch vụ, nội dung đào tạo trước hết là hướng cho người dân thuộc Cămpuchia, CHDCND Lào và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam làm quen và thích nghi với kinh tế thị trường và sản xuất hàng hoá. Đồng thời, từng bước hình thành các cơ sở và mở rộng đào tạo công nhân kỹ thuật và kỹ thuật viên ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí sửa chữa các tư liệu sản xuất nông - lâm nghiệp, giao thông vận tải, điện dân dụng, mở rộng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (dệt thổ cẩm) ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Chú trọng phát triển đào tạo các nghề xây dựng giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện, dân dụng... Nhanh chóng phát triển và mở rộng đào tạo lao động phục vụ thương mại, du lịch và dịch vụ cá nhân, cộng đồng.
4. Định hướng phát triển nông nghiệp và thuỷ sản
4.1. Định hướng phát triển
(1). Phát triển nông nghiệp đảm bảo tính ổn định và vững chắc trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, kinh tế xã hội và gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Trước hết cần đảm bảo an ninh lương thực để ổn định định canh định cư và nâng cao đời sống cho nhân dân.
(2). Phát triển nông nghiệp đặt trong mối quan hệ liên vùng hỗ trợ lẫn nhau và đảm bảo lợi ích chung và lợi ích mỗi vùng lãnh thổ của mỗi nước. Tập trung khai thác ở những tiểu vùng có nhiều lợi thế nhất (vùng động lực) và các sản phẩm đã hội đủ các điều kiện cần thiết, có chỗ đứng tương đối vững chắc trên thị trường để hỗ trợ phát triển ở các vùng khác, các sản phẩm khác phát triển.
(3). Phát triển sản xuất nông nghiệp hướng tới phát triển sản xuất hàng hoá, phát huy cao nhất các lợi thế so sánh từng vùng, gắn sản xuất với công nghiệp chế biến nhằm tạo ra sản phẩm hàng hoá giá trị gia tăng cao, chất lượng và hiệu quả.
Vùng các tỉnh Đông Bắc Campuchia:Sản xuất nông nghiệp trọng tâm là cải thiện và đảm bảo ổn định an ninh lương thực. Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng đầu tư thâm canh, nhất là sản xuất lương thực. Hình thành và phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến đáp ứng đủ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Kết hợp khai thác nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên hợp lí (nguồn cá tự nhiên, nguồn lâm sản...) với bảo tồn, phát triển rừng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Vùng các tỉnh Nam Lào:Phát triển sản xuất nông nghiệp tập trung thực hiện 6 chương trình ưu tiên của Nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn là sản xuất đủ lương thực, sản xuất sản phẩm hàng hoá, định canh định cưhạn chế canh tác nương rẫy, phát triển thuỷ lợi, nghiên cứu nông nghiệp và phát triển nguồn nhân lực. Trong thời gian tới ưu tiên giải quyết được cơ bản về an ninh lương thực, đặc biệt ở các huyện miền núi để hạn chế phá rừng làm nương rẫy. Kết hợp khai thác hợp lí nguồn lâm sản với công tác bảo vệ rừng, trồng thêm rừng đặc biêt là rừng đầu nguồn nhằm bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển mạnh sản xuất sản phẩm hàng hoá nhất là cây công nghiệp, gắn sản xuất hàng hoá với phát triển trang trại nông lâm nghiệp, gắn sản xuất nông lâm nghiệp với công nghiệp chế biến để thay thế nhập khẩu đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng và cho xuất khẩu.
Vùng các tỉnh Tây Nguyên:Phát triển nông nghiệp theo hướng đầu tư thâm canh là chính, nhất là đối với cây công nghiệp xuất khẩu (cà phê, cao su, điều, tiêu...), phát triển chăn nuôi đại gia súc, trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản. Xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá tăng trưởng nhanh và bền vững, kết hợp nông nghiệp và công nghiệp chế biến, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cộng đồng các dân tộc.
4.2 - Phương hướng phát triển ngành trồng trọt
(1)- Cây lương thực
Vùng các tỉnh Đông Bắc Campchia: Tập trung đầu tư thâm canh trên diện tích đã có. Hạn chế canh tác nương rẫy, chuyển sang trồng các loại cây công nghiệp có khả năng che phủ tốt và áp dụng phương thức nông lâm kết hợp để bảo vệ môi trường sinh thái (đặc biệt là khu vực miền núi tỉnh Rattanakiri).
Phát triển và mở rộng diện tích trồng ngô lai cung cấp một phần lương thực và đẩy mạnh phát triển chăn nuôi.
Dự kiến đến năm 2005 đạtbình quân thóc 300kg/người và 377kg/người vào năm 2010.
Vùng các tỉnh Nam Lào: Tập trung mở rộng diện tích, thâm canh tăng năng suất lúa, ngô và chuyển đổi mùa vụ tránh ngập úng ở đồng bằng Attapư nhằm đáp ứng đủ cho nhu cầu trong tỉnh và tham gia điều phối lương thực hàng hoá cho chương trình an ninh lương thực quốc gia. Đối với các huyện miền núi, ưu tiên phát triển lúa nước ở các vùng có khả năng nguồn nước nhằm giải quyết một phần lương thực tại chỗ.
Bình quân lương thực (riêng thóc) năm 2005 đạt 380 kg/người và đạt 587 kg vào năm 2010 (Attapư 780 kg/người, Sekong 334 kg/người).
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Sản xuất lương thực chỉ đảm bảo ở mức an ninh lương thực, với hai cây lương thực chính là lúa và ngô. Diện tích lúa nước chỉ mở rộng ở những nơi có điều kiện nước tưới, chuyển một phần đất lúa không được tưới sang cây trồng khác và giảm diện tích nương rẫy, thâm canh cây lúa trên diện tích có tưới và diện tích không thể trồng các cây khác.
Hạn chế diện tích trồng màu lương thực trên đất dốc, chuyển sang trồng cây công nghiệp có độ che phủ tốt. Đưa nhanh tiến bộ về giống cây trồng (lúa, ngô lai, cây công nghiệp...), bảo vệ thực vật, sử dụng phân bón hợp lí để nâng cao năng suất cây trồng và bảo vệ môi trường sinh thái.
Dự kiến sản xuất lương thực có hạt đảm bảo đủ an ninh lương thực (bình quân 307kg/người, riêng thóc 168kg).
(2)- Cây công nghiệp ngắn ngày
Vùng các tỉnh Đông Bắc Campuchia: Khai thác các vùng đất bãi ven sông và vùng cao nguyên Rattanakiri để phát triển cây công nghiệp ngắn ngày trong đó tập trung phát triển đậu tương, mía, lạc... Trước mắt cần đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu thụ, đủ nguyên liệu cho các cơ sở chế biến nhỏ nội vùng và cung cấp một phần nguyên liệu cho vùng khác (đặc biệt là các vùng biên giới với Tây nguyên). Hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày dự kiến sẽ phát triển mạnh sau năm 2010.
Vùng các tỉnh Nam Lào: Phát triển các cây công nghiệp ngắn ngày đáp ứng cho nhu cầu tại chỗ và các cơ sở chế biến nhỏ như mía, đậu tương, lạc..., đồng thời chú trọng phát triển cây bông cung cấp nguyên liệu cho phát triển ngành dệt truyền thống của đồng bào các dân tộc. Xúc tiến hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày cung cấp cho công nghiệp chế biến dự kiến sẽ xây dựng sau năm 2010.
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Các cây công nghiệp ngắn ngày chú trọng phát triển là bông, mía, lạc và đậu tương nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Chuyển một số diện tích lúa, màu năng suất thấp không ổn định sang trồng cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, đậu tương.
(3)- Cây công nghiệp lâu năm
Vùng các tỉnh Đông bắc Campuchia: Các cây công nghiệp lâu năm chủ lực dự kiến phát triển mạnh là cây cao su và cây điều. Từng bước nâng cao diện tích một số cây công nghiệp lâu năm khác có triển vọng phát triển ở những nơi có điều kiện phù hợp như hồ tiêu, ca cao... (đặc biệt ở cao nguyên Rattanakiri).
Vùng các tỉnh Nam Lào: Trong điều kiện đa số nhân dân chưa có tập quán sản xuất hàng hoá, trình độ kỹ thuật còn thấp, do đó trong thời gian trước mắt chú trọng phát triển một số cây trồng đã có điều kiện phát triển và có chỗ đứng trên thị trường (cà phê, sa nhân). Dự kiến các cây công nghiệp lâu năm, cây dược liệu hàng hoá chủ lực của vùng là cà phê, sa nhân, điều, hồ tiêu.
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm dự kiến phát triển đến 2010 khoảng 488 nghìn ha, trong đó một số cây trồng chủ lực là cao su 157 nghìn ha, cà phê ổn định ở mức 260 nghìn ha, điều 47 nghìn ha, hồ tiêu 12,8 nghìn ha...
(4)- Rau đậu thực phẩm và cây ăn quả
Vùng các tỉnh Đông Bắc Campuchia: Sản xuất rau quả phấn đấu cân đối cho nhu cầu tại chỗ và phục vụ khách du lịch. Từng bước nâng diện tích trồng cây ăn quả phục vụ nhu cầu tiêu thụ, khách du lịch và công nghiệp chế biến rau quả. Chú trọng phát triển một số cây ăn quả có triển vọng như sầu riêng, nhãn, dứa, chuối, xoài...
Vùng các tỉnh Nam Lào: Phát triển rau quả chủ yếu đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ nội vùng và cung cấp một phần cho các đô thị vùng Nam Lào (vùng rau cao nguyên Boloven). Phát triển cây ăn quả trước hết phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ nội vùng.
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Vùng các tỉnh Tây Nguyên bố trí sản xuất rau chủ yếu cung cấp cho nhu cầu tại chỗ. Phát triển các loại cây ăn quả có thị trường tiêu thụ và phù hợp với điều kiện đất đai khí hậu của từng tiểu vùng. Hình thành các vườn quả như bơ, chuối, sầu riêng theo hướng cải tạo các vườn tạp ở các vùng quanh thành phố, thị xã, dọc các quốc lộ hình thành vườn quả kết hợp với bố trí khu dân cư trong giai đoạn tới.
4.3- Phương hướng phát triển ngành chăn nuôi - Thuỷ sản
(1)- Chăn nuôi
Nhiệm vụ củangành chăn nuôitrong thời gian tới là không ngừng nâng cao cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và cho xuất khẩu (nhất là chăn nuôi bò), mở rộng phương thức bán thâm canh, khai thác phát triển có hiệu quả chăn nuôi bò, thúc đẩy chăn nuôi lợn, gia cầm... từng bước đưa ngành chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính.
Vùng các tỉnh Đông bắc Campuchia: Khai thác tiềm năng thế mạnh vùng đồi núi cao nguyên đẩy mạnh phát triển chăn nuôi trâu bò, đặc biệt là chăn nuôi bò thịt hàng hoá cung cấp cho nhu cầu thị trường các thành phố lớn, nhất là thủ đô Pnông Pênh. Từng bước phát triển hợp lí chăn nuôi lợn gia cầm, nhất là các vùng có điều kiện sản xuất lương thực. Trong chăn nuôi, vấn đề quan trọng hàng đầu là cải thiện được khâu giống gia súc gia cầm và nâng cao kỹ thuật chăn nuôi cho nhân dân. Tăng cường công tác chọn lọc cải tạo giống địa phương và đưa thêm vào vùng một số giống gia súc gia cầm mới có khả năng tăng trọng nhanh và phù hợp với điều kiện của vùng.
Vùng các tỉnh Nam Lào: Phát triển chăn nuôi gia súc (trâu bò) là thế mạnh và là truyền thống lâu đời của nhân dân trong vùng. Đối với vùng miền núi khó khăn về sản xuất lương thực, chăn nuôi trâu bò là biện pháp có hiệu quả nhất hiện nay để tăng thêm nguồn thu nhập cải thiện an ninh lương thực hộ gia đình. Phát triển chăn nuôi trâu thịt đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ (nhân dân có tập quán thích ăn thịt trâu hơn thịt bò) và cung cấp một phần sức kéo cho sản xuất (vùng sản xuất lương thực), đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò thịt hàng hoá cung cấp cho nhu cầu các đô thị vùng nam Lào và xuất khẩu. Mặt khác cần chú trọng chăn nuôi lợn, gia cầm ở các vùng trong điểm sản xuất lương thực để tận dụng tốt các sản phẩm phụ và cung cấp nguồn phân bón cho sản xuất. Phần lớn các giống gia súc gia cầm hiện nay là giống địa phương tuy có khả năng thích nghi với điều kiện sinh thái, phù hợp tập quán chăn nuôi của nhân dân song khả năng tăng trọng chậm và trọng lượng xuất chuồng thấp. Do vậy trong thời gian tới cần triển khai công tác chọn lọc các giống địa phương có triển vọng kết hợp với nhập thêm một số giống gia súc gia cầm mới phù hợp với điều kiện của vùng để lai tạo và phát triển, đặc biệt là các giống bò. Tăng cường các hình thức khuyến nông, phòng trừ dịch bệnh, đặc biệt là xây dựng hệ thống tủ thuốc thú y thôn bản, vận động chăn nuôi nhốt chuồng và xây dựng các mô hình chăn nuôi phù hợp với điều kiện, tập quán từng vùng để nhân dân học tập và làm theo.
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Tây Nguyên có điều kiện phát triển chăn nuôi đại gia súc, đặc biệt nuôi bò thịt và bò sữa. Cần triển khai các dự án phát triển chăn nuôi bò thịt chất lượng cao ở Đắk Lắk cung cấp cho các đô thị và khu công nghiệp. Nâng cao năng lực cung cấp đực giống lai, hình thành mạng lưới truyền giống. áp dụng kỹ thuật bảo quản phụ phẩm cung cấp thức ăn về mùa khô. Bố trí dành đất để cải tạo thành bãi chăn thả, xây dựng 2 - 3 vùng có đủ năng lực sản xuất giống và cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo nuôi vỗ béo, chế biến...
Chăn nuôi lợn: Mỗi tỉnh cần có mạng lưới sản xuất và cung cấp giống, hệ thống cung cấp nguồn thức ăn giàu đạm để bổ sung vào khẩu phần ăn cho lợn. Phát triển mô hình chăn nuôi lợn hướng nạc ở các vùng ven đô thị. Đối với vùng sâu vùng xa cần vận động chăn nuôi lợn nhốt chuồng, phòng trừ dịch bệnh.
(2)- Thuỷ sản
Về thuỷ sản, phương hướng chung về phát triển thuỷ sản trong thời gian tới là sử dụng hợp lí các loại hình mặt nước nuôi bán thâm canh các giống thuỷ sản có năng suất cao và khai thác hợp lí nguồn lợi cá tự nhiên đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu thụ của nhân dân trong vùng.
Vùng các tỉnh Đông bắc Cămpuchia: Nằm ở hạ lưu của các sông lớn với nhiều hồ tự nhiên, nguồn nước khá dồi dào, do vậy phát triển thuỷ sản là một trong những thế mạnh của khu vực hiện tại cũng như tương lai, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống của nhân dân trong vùng. Trong thời gian tới cần kết hợp khai thác có hiệu quả nguồn lợi cá tự nhiên hợp lí và phát triển nuôi thuỷ sản dưới nhiều hình thức như nuôi cá ao, nuôi thả ở các hồ tự nhiên, nuôi cá lồng... nhằm khai thác tối ưu tiềm năng của vùng theo hướng phát triển bền vững cũng như bảo tồn các loài cá quý hiếm.
Vùng các tỉnh Nam Lào: Cá là thực phẩm ưa thích và chiếm vị trí quan trọng trong khẩu phần ăn của đa số nhân dân trong vùng. Hướng phát triển chính là ưu tiên khai thác nuôi thả cá ở các hồ tự nhiên nhỏ và phát triển nghề nuôi cá ao ở những vùng có điều kiện nguồn nước kết hợp với khai thác nguồn lợi cá tự nhiên hợp lí, nuôi cá lồng trên sông Sekong, Sekaman, Se Xụ...
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Tuy tiềm năng phát triển thuỷ sản không lớn nhưng có ý nghĩa rất lớn đối với kinh tế xã hội của vùng. Do vậy cần gắn quy hoạch phát triển thuỷ sản với các chương trình kinh tế xã hội, đồng thời nhà nước cần có chính sách ưu tiên cho các dự án thuỷ sản mang tính khả thi cao và diện người được hưởng lợi rộng.
5. Phương hướng phát triển lâm nghiệp
Đối với khu vực biên giới ba nước, phát triển ngành lâm nghiệp là hướng đi quan trọng để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhất là vùng đồng bào dân tộc. Phương hướng chung về phát triển lâm nghiệp là chuyển từ kinh doanh lâm nghiệp lấy khai thác làm trọng sang phát triển lâm nghiệp xã hội lấy lâm sinh làm gốc. Chú trọng công tác bảo vệ và phát triển vốn rừng kết hợp với khai thác hợp lí, có hiệu quả tài nguyên rừng.
Bảo vệ diện tích rừng hiện có kết hợp với khoanh nuôi phục hồi rừng và trồng rừng, đặc biệt là ở các khu vực phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ cho các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi... Thực hiện tốt chủ trương đóng cửa rừng, giảm khai thác, tăng cường trồng rừng nguyên liệu và đổi mới công nghệ chế biến gỗ, chế biến lâm sản phục vụ xuất khẩu và nhu cầu của nhân dân.
Vùng các tỉnh Đông Bắc Campuchia: Việc suy giảm nhanh chóng diện tích rừng những năm gần đây đã gây ra nhiều ảnh hưởng bất lợi đến môi trường sinh thái cũng như đời sống của nhân dân trong vùng. Do vậy phương hướng phát triển ngành lâm nghiệp trong những năm tới trước hết cần có các biện pháp ngăn chặn được tình trạng phá rừng, khai thác rừng bừa bãi, bảo vệ nghiêm ngặt diện tích rừng hiện còn kết hợp với tăng cường bảo vệ tái sinh rừng tự nhiên, đặc biệt là các khu vực phòng hộ đầu nguồn và trồng thêm rừng. Phấn đấu đến năm 2010 đưa diện tích rừng đạt khoảng 1,6 triệu ha (độ che phủ của đất rừng đạt 70%).
Vùng các tỉnh Nam Lào: Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của vùng. Hướng phát triển trong thời gian tới tập trung bảo vệ diện tích rừng hiện có kết hợp với bảo vệ để rừng tái sinh tự nhiên và đẩy mạnh công tác trồng rừng, đặc biệt với khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn đưa diện tích rừng lên khoảng 1,35 triệu ha vào năm 2010 đảm bảo độ che phủ khoảng 75%. Đối với các khu vực cần được bảo vệ nghiêm ngặt nên chuyển sang các khu bảo tồn thiên nhiên để tiện quản lí.
Vùng các tỉnh Tây Nguyên: Bảo vệ diện tích rừng hiện có bằng các biện pháp lâm sinh, trồng rừng, nông lâm kết hợp đảm bảo cho vùng các tỉnh Tây Nguyên có khoảng 2,855 triệu ha rừng vào năm 2010 đưa độ che phủ bình quân lên khoảng 65%.
6. Phương hướng phát triển công nghiệp
Phương hướng phát triển công nghiệp chung của Tam giác phát triển là ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản là ngành giữ vị trí quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp phát triển sản xuất sản phẩm hàng hoá và nâng cao hiệu quả sản xuất. Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản cần gắn liền với tiềm năng sản xuất nông lâm nghiệp và thúc đẩy việc đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp, tạo mối liên kết khăng khít giữa công nghiệp với nông lâm nghiệp.
Phát triển với quy mô vừa và nhỏ, đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Phát triển công nghiệp chế biến có thể phân bố phân tán hoặc trong các khu công nghiệp tập trung và cả ở các địa phương với quy mô thích hợp.
a) Các tỉnh của Campuchia: Phát triển tiểu thủ công nghiệp sản xuất các công cụ cơ khí đơn giảm phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp. Từng bước phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản gắn liền với các chương trình đầu tư phát triển ngành nông lâm nghiệp theo hướng tạo lập các cơ sở cung cấp nguyên liệu tập trung, nhằm cung cấp sản phẩm cho thị trường trong và ngoài vùng, đặc biệt là công nghiệp chế biến gỗ, giấy...Phát triển công nghiệp năng lượng (thủy điện) trên cơ sở tăng cường hợp tác tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ năng lượng (thị trường ngoài khu vực) giải quyết đầu ra nhằm kêu gọi đầu tư phát triển các công trình thủy điện quy mô vừa và lớn, đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế trong vùng và cung cấp cho các thị trường ngoài vùng. Phát triển một số ngành công nghiệp vật liệu xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hạ tầng kinh tế và xã hội trên địa bàn.
Chuẩn bị điều kiện để phát triển một số ngành công nghiệp khai thác khoáng sản, các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ cho phát triển của các ngành kinh tế khác trong vùng.
Phương hướng phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản tập trung phát triển cơ sở chế biến sản phẩm hàng hoá chủ lực truyền thống của vùng như cao su, điều, cá, lâm sản.... theo hướng đa dạng hoá sản phẩm và từng bước nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đối với các vùng có điều kiện hình thành các vùng chuyên canh cây nguyên liệu tập trung (như cao nguyên Rattanakiri) cần gắn đầu tư đồng bộ vừa quản línhà máy chế biến vừa đầu tư quản lí sản xuất nguyên liệu (như mô hình công ty cao su Xai Xinh) để đảm bảo cung cấp ổn định nguyên liệu và thu mua một phần nguyên liệu của các hộ gia đình sản xuất phân tán.
Trước hết cần tập trung đầu tư nâng cấp, đổi mới dây chuyền công nghệ mở rộng quy mô sản xuất các cơ sở, nhà máy hiện có như nhà máy chế biến cao su Xai Xinh (ở bản Lung - Rattanakiri), các cơ sở chế biến cá, chế biến gỗ, chế biến lâm sản... Một số sản phẩm như hạt điều, lạc, đậu tương, lâm sản.... trong khi chưa có cơ sở chế biến cần tổ chức thu mua và xúc tiến thương mại cung cấp nguyên liệu ra các cơ sở ngoài vùng, nhất là cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở chế biến vùng Tây Nguyên. Xây dựng cơ sở chế biến tinh bột sắn, ngô ở Stung Treng (công ty Phiepimex) công suất 5 - 10 nghìn tấn/năm; xây dựng 2 nhà máy chế biến hạt điều ở Rattanakiri tổng công suất 4 - 6 nghìn tấn/năm; nhà máy phân vi sinh ở Stung Treng, công suất 50 nghìn tấn/năm; nhà máy chế biến thức ăn gia súc ở 2 tỉnh, tổng công suất 4 - 5 nghìn tấn/năm; nhà máy chế biến lâm sản xuất khẩu (song mây, tre...) ở 2 tỉnh; nhà máy chế biến rau quả ở 2 tỉnh (nước hoa quả, ngô hộp thực phẩm, dưa chuột bao tử...); nhà máy ép dầu thực vật ở 2 tỉnh công suất từ 1,5 - 2 nghìn tấn/năm; nhà máy mía đường ở Stung Treng khi mở thêm vùng nguyên liệu sau năm 2010 công suất 1 - 2 nghìn tấn mía/ngày.
Tăng cường phát triển các hình thức chế biến quy mô hộ gia đình, đặc biệt là đối với chế biến cá (cá khô, bò hóc, nước mắm, làm mắm...), thịt khô, chế biến mía đường, chế biến bánh, bún... Ngoài ra cần hỗ trợ và hướng dẫn kỹ thuật cho người sản xuất các biện pháp sơ chế, bảo quản sản phẩm để đảm bảo chất lượng cung cấp cho các cơ sở chế biến.
b) Các tỉnh của Lào:Ngành công nghiệp chế biến ở các tỉnh của Lào hầu như chưa phát triển, do vậy để hỗ trợ cho chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng sản phẩm hàng hoá, cần tổ chức tốt khâu thu mua nông lâm sản cung cấp nguyên liệu thô cho các cơ sở chế biến ngoài vùng, đặc biệt là xúc tiến thương mại cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến vùng Tây Nguyên của Việt Nam. Hiện tại các cơ cở chế biến còn ít, sản xuất nguyên liệu còn phân tán, nhiều loại sản phẩm chưa có cơ sở chế biến. Trong giai đoạn trước mắt cần tập trung nâng cấp, hoàn thành các cơ sở chế biến nông lâm sản hiện có để nâng cao chất lượng và khối lượng chế biến cung cấp cho nhu cầu nội vùng và xuất khẩu..
Dự kiến xúc tiến xây dựng một số cơ sở, nhà máy chế biến như sau: khai thác mỏ than đá huyện Ca Lưm; hoàn thành nhà máy phân vi sinh ở Attapư (công suất 50 nghìn tấn/năm); nhà máy chế biến thức ăn gia súc ở 2 tỉnh tổng công suất 4 nghìn tấn/năm; nhà máy chế biến cà phê ở tỉnh Sekong công suất 5 nghìn tấn/năm; xí nghiệp sản xuất đũa, chế biến lâm sản (song mây...) xuất khẩu ở 2 tỉnh; nhà máy chế biến hạt điều ở 2 tỉnh tổng công suất 2 - 3 nghìn tấn/năm; cơ sở ép dầu thực vật (lạc, đậu tương, vừng...) ở 2 tỉnh, công suất 1,5 - 2 nghìn tấn/năm; nhà máy chế biến tinh bột sắn, ngô ở 2 tỉnh với tổng công suất 5 - 10 nghìn tấn/năm; xây dựng xây dựng nhà máy bột giấy ở 2 tỉnh công suất 20 - 30 nghìn tấn/năm; nhà máy chế biến rau quả (nước hoa quả, ngô hộp thực phẩm, dưa chuột bao tử...).
Ngoài ra cần hỗ trợ khuyến khích hướng dẫn phát triển các hình thức sơ chế, bảo quản sản phẩm quy mô hộ gia đình đảm bảo chất lượng sản phẩm (cà phê, điều, tiêu...) để các cơ sở chế biến thu mua, chế biến phân loại và xuất khẩu. Đồng thời phát triển các cơ sở chế biến nhỏ quy mô hộ gia đình cung cấp cho nhu cầu nội vùng như mía đường, bánh phở, cá khô, thịt khô, mắm...
Khuyến khích sản xuất đồ gốm ở Bản Thà Him huyện Xamakhixay; tổ chức hiệp hội thủ công dệt vải ở huyện Xamakhixay và huyện Xanamxay; tổ chức hiệp hội thủ công đan lát mây tre, nứa ở huyện Xayxetha và huyện Xanamxay; phát triển nghề thủ công đan lát ở 3 huyện (La Man, Ca Lưm và Đắc Trưng); phát triển nghề dệt vải, nhuộm bằng nguyên liệu thiên nhiên ở ba huyện (La Man, Ca Lưm, Đăc Trưng); sản xuất đồ dùng gia đình, đồ dùng bằng tre nứa, xí nghiệp chế biến đồ dùng bằng gỗ.
c) Các tỉnh của Việt Nam:Phương hướng chung cho công nghiệp chế biến là đẩy mạnh chế biến cà phê, cao su, điều, bông, chế biến gỗ, lâm sản... bằng các thiết bị hiện đại với công suất phù hợp gắn với các vùng nguyên liệu đảm bảo nâng cao chất lượng, hạ giá thành để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Vừa phát triển công nghiệp thuỷ điện, khai thác và chế biến khoáng sản, công nghiệp chế biến nông, lâm sản (bột giấy, ván ép, chế biến bông, kéo sợi, chế biến cao su, cà phê...), nhưng đồng thời cũng phải chú ý phát triển các công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề truyền thống (đồ dùng gia đình, dụng cụ sản xuất, thổ cẩm...) để đáp ứng như cầu tiêu dùng tại chỗ và nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc.
Nhà nước tập trung đầu tư các công trình công nghiệp quan trọng, những công trình then chốt về kết cấu hạ tầng, tạo thế và lực để lôi kéo sự phát triển chung và làm cho nền kinh tế phát triển nhanh.
- Công nghiệp khai khoáng: Thời kỳ 2005-2006 triển khai xây dựng công nghiệp khai thác và chế biến bôxit và luyện nhôm ở Đắc Nông.
Các địa phương dự kiến xây dựng kết cấu hạ tầng để hình thành một số khu công nghiệp như Tâm Thắng (Đắk Lắk), Trà Đa (Gia Lai) và Hoà Bình (Kon Tum) nhưng trước mắt hình thành các cụm công nghiệp; khi có điều kiện và nhu cầu mới nên xây dựng các khu công nghiệp.
- Xây dựng các nhà máy chế biến cà phê xuất khẩu công suất 40 - 50 nghìn tấn/năm, nhà máy xay xát cà phê (2000 tấn/năm), nhà máy cà phê đóng gói 500 tấn/năm. Từng bước đa dạng các sản phẩm cà phê tinh như cà phê hoà tan, cà phê lỏng đóng hộp...
Đầu tư nâng cấp 11 nhà máy chế biến cao su hiện có (71,5 nghìn tấn/năm). Xây dựng 3 nhà máy chế biến cao su công suất 10-15 vạn tấn mủ cao su/năm; xây thêm một số nhà máy chế biến cà phê xuất khẩu công suất 40-50 nghìn tấn/năm. Đến năm 2010 trên địa bàn 2 tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk xây dựng 4 nhà máy chế biến hạt điều xuất khẩu (tổng công suất 20 nghìn tấn/năm) khi có đủ nguyên liệu. Khi có đủ nguyên liệu xây dựng nhà máy chế biến bột ca cao tại Đắk Lắk công suất 3 nghìn tấn/năm. Xây dựng 3 nhà máy chế biến tinh bột sắn, ngô ở Đắk Lắk tổng công suất 25 nghìn tấn/năm và mở rộng nhà máy chế biến thức ăn gia súc ở Đắk Lắk công suất 20 nghìn tấn/năm.
- Hiện nay công suất các nhà máy cán bông của Việt Nam chỉ đạt 30 nghìn tấn/năm chỉ bằng 22% và 10% so với công suất yêu cầu trong 5 và 10 năm tới. Để đáp ứng nhu cầu cán bông cần đầu tư xây dựng thêm nhà máy với tiêu chí cứ 10 nghìn ha bông cần 1 nhà máy công suất 20 nghìn tấn/năm. Dự kiến tại Đắk Lắk xây dựng 2 nhà máy: nhà máy cán bông Tâm Thắng (Đắk Lắk 2) đặt tại huyện Cư Jút công suất 15 nghìn tấn/năm, nhà máy Đắk Lắk 3 công suất 15 nghìn tấn/năm (sau 2005) tại Buôn Ma Thuột. Tại Gia Lai xây dựng 2 cụm chế biến bông xơ ở Chư Sê và An Khê có công suất tương ứng là 12 và 6 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó đầu tư đồng bộ nhà máy ép dầu bông Đắk Lắk tại Buôn Ma Thuột công suất 40 nghìn tấn.
- Rau quả: Xây dựng nhà máy chế biến rau quả ở Plei Ku - Gia Lai (chủ yếu là nước dứa) với vùng nguyên liệu 5000 ha. Xây dựng nhà máy chế biến hoa quả ở thị trấn Đăk Hà hoặc thị xã Kon Tum có công suất 1.500 tấn/năm và nâng cấp nhà máy lên 3.000 tấn sản phẩm/năm vào năm 2010.
-Chế biến gỗ, lâm sản: Nhà máy ván ép cường độ trung bình (MDF) công suất 54 nghìn m3/năm tại Gia Lai đã hoàn thành năm 2002. Xây dựng 3 nhà máy chế biến gỗ ở 3 tỉnh, công suất 30-120 nghìn m3gỗ tròn/năm. Xây dựng 2 nhà máy dăm bã mía (ở Kon Tum và Đắk Lắk) công suất mỗi nhà máy 2 nghìn m3/năm, xây dựng 2 nhà máy ván dăm ở Đắk Lắk và Kon Tum công suất 30 nghìn m3/năm/nhà máy và 2 xưởng đồ gỗ ván nhân tạo (Đắk Lắk và Kon Tum) công suất 10 nghìn m3/ năm/xưởng.
-Công nghiệp dệt may: Giai đoạn 2006 - 2010: đầu tư mở rộng thêm 5 dây chuyền may tại xí nghiệp may Kon Tum đưa công suất lên 1 triệu sản phẩm/ năm;
-Công nghiệp da giầy: Giai đoạn 2006- 2010: đầu tư xây dựng một xí nghiệp sản xuất giầy vải tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, công suất 1 triệu đôi/năm.
- Công nghiệp rượu bia, nước giải khát: Xây dựng xí nghiệp nước khoáng ở Đăk Tô với công suất 1,5 triệu lít/năm, …
- Phân bón:giaiđoạn 2001- 2005: xây dựng giai đoạn I nhà máy NPK cao cấp tại Kon Tum, công suất 30.000 tấn/năm và dây chuyền sản xuất phân vi sinh công suất 5.000 tấn/năm; giai đoạn 2006 - 2010: mở rộng công suất, xây dựng giai đoạn II nhà máy NPK Kon Tum đạt 50.000 tấn/năm, phân hữu cơ đạt 10.000 tấn/năm. Dự kiến khi cửa khẩu Bờ Y - Giang Giơn đi vào hoạt động có thể nâng công suất nhà máy phân bón lên thêm 100.000 tấn/năm để đáp ứng nhu cầu phân bón cho các tỉnh Nam Lào.
- Định hướng phát triển khu công nghiệp tập trung: Khu công nghiệp Hoà Bình (Kon Tum); khu công nghiệp Trà éa (Gia Lai), khu công nghiệp Tâm Thắng (Đắk Lắk).
Khuyến khích phát triển các làng nghề truyền thống như nghề dệt thổ cẩm đan lát nhằm khôi phục lại nền văn hóa, bản sắc dân tộc của đồng bào. Trước mắt tập trung ở các buôn, làng lân cận các đô thị, các thị xã, thị trấn
7 - Phát triển nông thôn
Khu vực biên giới ba nước là nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, đời sống nói chung còn gặp nhiều khó khăn, phong tục tập quán sản xuất lạc hậu, tình trạng du canh còn diễn ra nhiều nơi. Do vậy phát triển nông thôn tập trung vào các lĩnh vực phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng thiết yếu, ổn định dân cư góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn: Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm kinh tế nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Hiện nay trong cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ trọng nông lâm nghiệp đang chiếm tỷ lệ rất cao từ 70 - 90% tổng thu nhập khu vực nông thôn. Mặc dù một số tỉnh trong khu vực (nhất là vùng Tây Nguyên, cao nguyên Rattanakiri, cao nguyên Boloven) đã có những vùng sản xuất hàng hoá lớn song chủ yếu vẫn là sản xuất hàng hoá thô, giá trị xuất khẩu thấp. Công nghiệp chế biến nông lâm sản phát triển chậm hạn chế sự phát triển của dịch vụ và các ngành nghề khác ở nông thôn. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đến 2010 là nông nghiệp chiếm 50 - 60%, công nghiệp chế biến nông thôn khoảng 20 - 30% và dịch vụ khoảng 20 - 30%. Phát triển nhanh công nghiệp chế biến, dịch vụ trước hết gắn với các vùng sản xuất hàng hoá tập trung như cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chế biến gỗ, lâm sản... Đây là những ngành động lực để chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đồng thời, bằng kinh nghiệm của Nhật Bản và Thái lan, khía niệm hoặc mô hình phát triển cộng đồng "Mỗi làng một sản phẩm" nên áp dụng ở nơi nào thích hợp. Cần hỗ trợ khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống ở nông thôn như dệt thổ cẩm, đan lát, thủ công mỹ nghệ...
-Phát triển kinh tế gắn với phát triển nông thôn: Các chương trình kinh tế trọng điểm của các tỉnh trong khu vực là sản xuất lương thực, sản xuất sản phẩm hàng hoá. Việc đẩy mạnh đầu tư cho sản xuất nông lâm nghiệp tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho hộ nông dân tham gia đóng góp mở mang cơ sở hạ tầng nông thôn như giao thông, điện, các công trình phúc lợi như trường học, trạm xá... xây dựng thành các vùng nông thôn phát triển, những vùng động lực. Các vùng sâu vùng xa là nơi đất rộng người thưa, các chương trình kinh tế cần gắn với phát triển nông lâm nghiệp, xoá đói giảm nghèo như chương trình phát triển kinh tế vườn đồi, vườn rừng, chăn nuôi gia súc, trồng rừng nguyên liệu... tạo cho các vùng nghèo, các hộ nghèo có cơ hội tham gia vào phát triển kinh tế xây dựng nông thôn mới.
-Định canh định cư:Cần nhanh chóng quy hoạch các vùng sản xuất chuẩn bị địa bàn để hoàn thành công tác định canh định cư ổn định cuộc sống cho đồng bào các dân tộc. Xây dựng đồng bộ các cơ sở hạ tầng thiết yếu, giao đất, giao rừng và tổ chức hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ nông dân để hộ yên tâm sản xuất.
-Phát triển nguồn nhân lực và phát triển văn hoá truyền thống, đào tạo ngành nghề nông thôn: Chú trọng công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật là người địa phương. Đào tạo, dạy nghề ở nông thôn trong các lĩnh vực chế biến nông lâm sản, công nghiệp nông thôn, đào tạo những nông dân giỏi, khuyến khích phát triển nông sản hàng hoá, nâng cao trình độ tổ chức, kỹ thuật sản xuất cho nông dân. Xây dựng tổ chức xã hội nông thôn cần chú trọng bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá của các dân tộc.
8- Định hướng phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ
8.1 -Du lịch
Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam với tiềm năng du lịch đa dạng về sinh thái và cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn trên một diện tích rộng lớn với hơn 20 khu công viên quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên với hệ sinh thái động thực vật phong phú vào bậc nhất đông dương và hơn 40 dân tộc và các bộ tộc ít người sinh sống trong các làng bản ở vùng sâu, vùng xa là những yếu tố phát triển thuận lợi để phát triển du lịch.
Các tỉnh của Campuchiacó nhiều tiềm năng để phát triển ngành du lịch, có nhiều di sản văn hoá, những cánh rừng trù phú, những con sông xinh đẹp, nhiều danh lam thắng cảnh hấp dẫn khách du lịch và người làm công tác nghiên cứu. Các điểm du lịch văn hoá - lịch sử và du lịch tự nhiên (du lịch sinh thái) gồm: Đền Preah Kor tại huyện Thalabariwat; Đền Pramboun Lveng cũng ở huyện Thalabariwat; Đền Preah Theat ở huyện Stung Treng; Giếng lịch sử ở huyện Sesan;Chùa Preah Ang Thom ở huyện Stung Treng; Chùa Sras Keo Monivann ở huyện Thalabariwat; Lưu vực sông Mê Kông có cá heo ở huyện Stung Treng; Orpongman ở huyện Stung Treng; Hồ Veal Rumpe ở huyện Sesan; Rừng ngập nước của sông Mekong, thuộc vùng RAMSAR; Thác nước Phamith hay "Thác Khorn" ở huyện Thalabariwat; Thung lũng Bat ở huyện Thalabariwat; Công viên quốc gia Virakchey ở huyện Siem Pang.
Các tỉnh của Làocó phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân các dân tộc, có tài nguyên rừng, sông, thác nước và nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng như: Các thác nước: Thác Phọc, thác Seponglay, thác Nặmpa và thác Phạ phong, Thác Phẹc, thác HưaKhôn, thác MạyHia, thác Luổng; rừng quốc gia Sêpiên, hồ Càyộc và hồ Phạ; Chùa XạKhẹ, chùa Xayxettha và chùa Phuphạ nôm; Hang Ông Kẹo (tỉnh uỷ miền Đông trong thời gian chiến tranh); đời sống, kiến trúc độc đáo của đồng bào dân tộc, nghề thủ công truyền thống của dân tộc; lễ hội của đồng bào dân tộc; vườn cà phê, vườn sa nhân (huyện Thà Teng).
Các tỉnh Tây Nguyên Việt Namđang có chủ trương phát triển mạnh kinh doanh du lịch. Tập trung xây dựng mới các trung tâm du lịch tại Buôn Hồ; Tiếp tục phát triển du lịch gắn với các vườn quốc gia YokDon; Đầu tư vào các trọng điểm du lịch ở Lắc, Buôn Đôn, cụm Draysap- Gialong- Trinh nữ (Đắk Lắk). Phát triển du lịch sinh thái ở 11 khu bảo tồn thiên nhiên như Chu Mom Ray, Ngọc Linh. Du lịch lữ hành qua cửa khẩu Bờ Y, Đức Cơ. Xây dựng tuyến du lịch lòng hồ Yaly, điểm du lịch Đacbla, điểm du lịch chứng tích Đắc Tô- Tân Cảnh và tuyến đường mòn Hồ Chí Minh (Kon Tum). Phát triển du lịch sinh thái ở Kon Ka King, Kon Cha Rang; Khu du lịch Biển Hồ và kết hợp phát triển du lịch ở Yaly (Gia Lai).
Tập trung khai thác để phát triển du lịch ở các khu di tích lịch sử văn hoá có giá trị như nhà thờ Buôn Mê Thuột, Toà giám mục, Tu viện nữ vương Hoà Bình (Đắk Lắk), chùa Khai Doan (Buôn Mê Thuột), các tháp Chàm cổ ở Cheo Reo, Phú Túc, mộ vua Lào ở bản Đôn cùng các di tích lịch sử liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Dân tộc như Ngục Kon Tum, nhà tù Buôn Mê Thuột.
Trong những năm tới tạo lập những cơ sở ban đầu về du lịch gắn với sự phát triển của hạ tầng kỹ thuật và các ngành, lĩnh vực khác; chuẩn bị các điều kiện để có thể đẩy nhanh phát triển du lịch hướng tới mục tiêu “ba quốc gia-một điểm đến” trong giai đoạn tiếp theo.
Trong điều kiện có những thuận lợi hơn để phát triển du lịch, ba tỉnh Tây nguyên của Việt Nam có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển du lịch tạo điều kiện lôi kéo và tới đẩy mạnh hợp tác phát triển du lịch trong tương lai.
Phương hướng phát triển:Từ nay đến 2010, du lịch trên địa bàn phát triển theo hướng sau:
Chú trọng đầu tư phát triển các loại hình du lịch sinh thái gắn liền với sự phát triển của ngành lâm nghiệp, các ngành khai thác tài nguyên như thủy năng... khai thác gắn liền với bảo tồn cảnh quan và bảo vệ môi trường tự nhiên;
Đầu tư phát triển các điểm du lịch văn hóa gắn liền với khôi phục và phát triển các truyền thống văn hóa của các dân tộc sống trên địa bàn. Đầu tư tôn tạo, bảo vệ các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh.
Chuẩn bị các điều kiện và tiến tới hình thành các tuyến du lịch từ nội vùng ra ngoại vùng và liên quốc gia, kết hợp du lịch biển, du lịch văn hoá của Việt Nam với du lịch sinh thái, du lịch văn hóa của Campuchia và Lào...
Đầu tư các cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí, các cơ sở phục vụ lưu trú của khách du lịch tạo điều kiện tăng thu nhập từ du lịch đảm bảo hiệu quả của kinh doanh du lịch...
Tập trung, phối hợp phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch.
Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng và dịch vụ phục vụ du lịch như: khách sạn, nhà hàng, sản phẩm lưu niệm.
Xây dựng các tour du lịch trong Tam giác phát triển nối với các điểm du lịch của 3 nước (Viêng Chăn, Siem Reap, Huế, Hội An...) như các tour "con đường huyền thoại", con đường di sản" ...
Tăng cường các chuyến bay đến khu vực Tam giác phát triển và các phương tiện vận chuyển phục vụ du khách.
Định hướng sản phẩm - thị trường du lịch trong Tam giác phát triển
Thị trường
Loại sản phẩm
|
Các tỉnh của Campuchia
|
Các tỉnh của Lào
|
Các tỉnh của
Việt Nam
|
Du lịch thương mại
|
*
|
*
|
**
|
Thiên nhiên và phong cảnh
|
***
|
***
|
***
|
Động vật hoang dã
|
**
|
***
|
**
|
Du lịch sông, hồ, thác nước
|
**
|
**
|
**
|
Lịch sử và di sản văn hoá
|
**
|
**
|
**
|
Tour tham quan tổng hợp
|
**
|
**
|
**
|
Nghỉ dưỡng núi cao
|
***
|
***
|
***
|
Sinh thái rừng nhiệt đới
|
***
|
***
|
**
|
Thể thao cảm giác mạnh
|
**
|
**
|
**
|
Lối sống của cộng đồng
|
***
|
***
|
***
|
Nghệ thuật dân gian
|
***
|
***
|
***
|
Ẩm thực, đặc sản
|
*
|
*
|
*
|
Làng nghề thủ công mỹ nghệ
|
**
|
**
|
**
|
Ghi chú:rất phong phú* * *, phong phú* *và có khả năng*.
8.2- Thương mại, dịch vụ
8.2.1- Định hướng phát triển chung.
Các tỉnh của Campuchia: Đẩy mạnh xuất nhập khẩu một số mặt hàng như cà phê, cao su, hạt tiêu; nhập khẩu các mặt hàng vật liệu xây dựng, thực phẩm... Xây dựng các chợ biên giới và phát triển hệ thống thương nghiệp phục vụ vùng sâu, vùng xa.
Phấn đấu đến năm 2005 kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Cămpuchia và Việt Nam đạt 438 triệu USD và đạt 880 triệu USD vào năm 2010, tốc độ tăng bình quân hàng năm kim ngạch xuất nhập khẩu giai doạn 2003 –2005 là 10%và giai đoạn 2006 –2010 là 15%. Trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu Đường 19- An Đông Pếch và cửa khẩu Buprăng- Oraing phải chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Campuchia và Việt Nam.
Các tỉnh của Lào:Đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng như: cà phê, gỗ, cây dược phẩm... Mở rộng mạng lưới kinh doanh thương mại ở các thị xã. Xây dựng các chợ biên giới. Nâng cao năng lực vận tải, nhất là vận tải quốc tế.
Phấn đấu đến năm 2005 kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Lào đạt 140 triệu USD và đạt 385 triệu USD vào năm 2010, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm giai đoạn 2003 –2005 là 10% và giai đoạn 2006 –2010 là 22%. Trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá qua cửa khẩu Bờ Y- Giang Giơn phải chiếm khoảng 10 % tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Lào và Việt Nam.
Các tỉnh của Việt Nam:Bằng mọi biện pháp để giải quyết tiêu thụ sản phẩm cho Tây Nguyên, gắn các tổ chức thương mại với các cơ sở sản suất. Xây dựng mạng lưới thương mại và các trung tâm thương mại tập trung ở các đô thị nhằm trao đổi hàng hoá trong tỉnh, trong vùng, với các tỉnh ngoài vùng và xuất khẩu. Phát triển mạnh mạng lưới chợ, đặc biệt là các chợ nông thôn. Củng cố hệ thống thương nghiệp phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Đẩy mạnh phát triển thương mại dịch vụ qua các cửa khẩu quốc gia Bờ Y (Kon Tum), Đức Cơ (Gia Lai) và Đắk Bờ (Đắk Lắk).
8.2.2- Định hướng phát triển tại các cửa khẩu của Cămpuchia - Lào - Việt Nam đến năm 2010.
a) Khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y – Ngọc Hồi (Kon Tum).
Khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y – huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum đến năm 2020 có diện tích 68.570 ha, bao gồm 05 xã gồm xã Saloong, Bờ Y, Đăksú, Đăknông, Đăkdục, và thị trấn Plei Kần. Theo quy hoạch trung tâm khu kinh tế cửa khẩu có diện tích 400 ha được phân thành 3 khu vực:
Khu chức năng: Diện tích khoảng 100 ha nằm cách biên giới Việt – Lào khoảng 1km.
Khu Công nghiệp: Diện tích khoảng 40 ha nằm trên quốc lộ 40, cách đường biên giới Việt – Lào khoảng 2,5 km.
Khu quản lý, văn phòng đại diện, nhà ở, công trình phúc lợi...: Diện tích khoảng 260 ha.
b)- Khu kinh tế cửa khẩu Đường 19 (Gia Lai )
Khu kinh tế cửa khẩu đường 19, tỉnh Gia Lai bao gồm 4 xã Ia Kla, Ia Nan, Ia Dom và thị trấn Chư Ty thuộc huyện Đức Cơ.
Hiện nay phương án cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại và dịch vụ tại khu vực cửa khẩu đường 19 đang trong quá trìnhchuẩn bị. Phía bên Campuchia thì còn nhiều khó khăn như mật độ dân cư thưa, thu nhập thấp, sức mua chậm, hệ thống đi lại khó khăn, làm ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển kinh tế cửa khẩu.
8.2.3- Quy hoạch hệ thống trung tâm thương mại.
Trung tâm thương mại là tổng hợp loại hình kinh doanh và dịch vụ, phục vụ cho mọi hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Để trung tâm thương mại hoạt động có hiệu quả, trước mắt nên xây dựng ở những khu vực cửa khẩu có kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá lớn như: ở cửa khẩu Bờ Y – Giang Giơn, cửa khẩu đường 19- An Đông Pếch và cửa khẩu Bu Prang-Oraing.
a) Trung tâm thương mại cửa khẩu Bờ Y ( Kon Tum) – Giang Giơn
Dự kiến quy mô diện tích sàn xây dựng trung tâm thương mại cửa khẩu Bờ Y- Ngọc Hồi là 8.000 m2,trong đó giai đoạn 1 từ năm 2003-2006 xây dựng 3.000m2 và giai đoạn 2 từ năm 2007- 2010 là 5.000 m2, tổng kinh phí xây dựng là 32 tỷ đồng, trong đó giai đoạn 1 là 12 tỷ đồng, giai đoạn 2 là 20 tỷ đồng. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã có quyết định số 1369/QĐ-TTg về việc quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y – huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum đến năm 2020 diện tích 68.570 ha, bao gồm 05 xã gồm xã Saloong, Bờ Y, Đăksú, Đăknông, Đăkdục, và thị trấn Plei Kần.
b) Trung tâm thương mại cửa khẩu Đường 19 (Gia Lai)
Dự kiến từ năm nay đến năm 2010 với diện tích sàn xây dựng khoảng 5.000 m2và kinh phí xây dựng khoảng 20 tỷ đồng Việt Nam.Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã có Quyết định số 139/QĐ- TTg về việc áp dụng chính sách khu kinh tế cửa khẩu đường 19, tỉnh Gia Lai. Ranh giới khu vực cửa khẩu đường 19- An Đông Pếch, huyện Đức cơ, Gia Lai bao gồm 4 xã Ia Kla, Ia Nan, Ia Dom và thị trấn Chư Ty thuộc huyện Đức Cơ.
c) Trung tâm thương mại cửa khẩu BuPrăng (Đắk Lắk)
Dự kiến quy mô diện tích sàn xây dựng trung tâm thương mại cửa khẩu Buprăng là 5.000m2, tổng vốn đầu tư là 20 tỷ đồng Việt Nam.
8.2.4. Quy hoạch hệ thống kho bãi.
a) Hệ thống kho ngoại quan
Để phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu cần thiết phải xây dựng các kho ngoại quan trong khu vực cửa khẩu do xu hướng vận chuyển hàng hoá bằng Container ngày càng phát triển nên tại các kho ngoại quan sẽ xây dựng các bãi để Container và để một số hàng hoá cồng kềnh như gỗ tròn, gỗ xẻ, sắt thép...
Căn cứ vào dự báo kim ngạch và khối lượng hàng hoá xuất khẩu qua các cửa khẩu trong khu vực Tam giác phát triển, dự kiến xây dựng các kho ngoại quan tại các cửa khẩu trong khu vực Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam đến năm 2010:
Tại cửa khẩu Bờ Y – Giang Giơn kho ngoại quan 8.000 m2và bãi hàng hoá 2.000 m2, kinh phí xây dựng 12 tỷ đồng, (2004 đến 2006 khoảng 7 tỷ đồng, từ năm 2007-2010 khoảng 5 tỷ đồng Việt Nam ).
Tại cửa khẩu đường 19 (Gia Lai ) kho ngoại quan 5.000 m2và bãi hàng hoá 2.000 m2, kinh phí xây dựng khoảng 8 tỷ đồng (từ năm 2004 –2006 khoảng 5 tỷ đồng và từ năm 2007 –2010 là 3 tỷ đồng Việt Nam).
Tại cửa khẩu BuPrăng (Đắk Lắk) kho ngoại quan 4.000 m2và bãi hàng hoá 1.000 m2, kinh phí xây dựng là 6 tỷ đồng (từ năm 2005-2006 khoảng 4 tỷ đồng và từ năm 2007 –2010 là 2 tỷ đồng Việt Nam).
b) Hệ thống bãi kiểm hoá và giao nhận hàng hoá.
Bãi kiểm hoá ở khu vực cửa khẩu là nơi kiểm tra hàng hoá của hải quan trước khi cho phép hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hoặc vận chuyển quá cảnh. Trong trường hợp của Cam-pu-chia, việc kiểm tra hàng hoá được kết hợp thực hiện giữa Cục Hải quan và Thuế của Bộ Kinh tế và Tài chính và Ban Thanh tra hàng hóa Xuất nhập khẩu và Giám sát gian lận (Camcontrol) của Bộ Thương mại. Để tiết kiệm diện tích xây dựng và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật, bãi kiểm hoá và bãi giao nhận hàng hoá tại cùng một địa điểm, đồng thời tại đây sẽ xây dựng văn phòng làm việc cho các lực lượng chức năng và một kho để bảo quản hàng hoá.
Việc xây dựng bãi kiểm hoá và bãi giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu có diện tích từ 3.000 –4.000 m2và kho bảo quản hàng hoá có diện tích 500 m2với kinh phí xây dựng bình quân khoảng 3 tỷ đồng/ cửa khẩu, như vậy tổng vốn xây dựng bãi kiểm hoá và bãi giao nhận hàng hoá cho cả 3 cửa khẩu trong khu vực Tam giác phát triển là 9 tỷ đồng cho giai đoạn 2004 –2010.
8.2.5- Quy hoạch hệ thống cửa hàng thương nghiệp.
Từ năm 2004 đến năm 2006, xây dựng các cửa hàng miễn thuế tại các cửa khẩu Bờ Y và cửa khẩu đường 19 ( Gia Lai). Ngoài ra tuỳ theo nhu cầu thị trường, phát triển một số cửa hàng kinh doanh tổng hợp, chú trọng phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa.
8.2.6- Quy hoạch chợ cửa khẩu và chợ biên giới
Việc xây dựng các chợ tại các khu vực cửa khẩu biên giới phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng. Từ nay đến năm 2006 sẽ đầu tư xây dựng tại mỗi khu đô thị cửa khẩu thuộc khu kinh tế cửa khẩu một chợ trung tâm với quy mô lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu giao lưu hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Diện tích kinh doanh mỗi chợ từ 1.500-3.000 m2, kinh phí xây dựng từ 3-5 tỷ đồng. Ngoài ra sẽ xây mới và cải tạo, nâng cấp các chợ hiện có ở các thị trấn, trung tâm cụm xã trong khu vực cửa khẩu. Tại các xã biên giới, tuỳ thuộc điều kiện cụ thể của từng xã, có thể xây dựng các chợ biên giới để thu hút cư dân hai bên biên giới đến trao đổi mua bán hàng hoá.
Tuy nhiên, do các tỉnh trong khu vực Tam giác phát triển đếu là những tỉnh nghèo nhất nước cả về cơ sử vật chất và nguồn nhân lực, đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để tạo động lực thu hút vốn đầu tư liên doanh của các tổ chức trong và ngoài nước thì trước tiên Nhà nước phải bỏ vốn đầu tư xây dựng một số dự án trọng điểm như chợ biên giới, chợ cửa khẩu, trung tâm thương mại, trụ sở làm việc của các trạm kiểm soát chuyên môn tại khu vực cửa khẩu, cơ sở hạ tầng... Có như vậy mới làm thay đổi bộ mặt kinh tế vùng cửa khẩu khu vực Tam giác phát triển, từ đó mới có thể tạo sự hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn hợp tác liên doanh tại khu vực Tam giác phát triển.
Giai đoạn 2005-2006, ưu tiên xây dựng các chợ vùng biên và các trạm kiểm soát dọc đường biên giới các tỉnh trong khu vực Tam giác phát triển. Các dự án này sẽ được thảo luận với sự nhất trí của cả ba nước.
Từ năm 2007-2010 sẽ tiếp tục đầu tư mở rộng các trung tâm thương mại, kho ngoại quan, Bãi kiểm hoá và đầu tư nâng cấp, cải tạo các chợ khác trong khu vực cửa khẩu của khu vực Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam./.