Skip Ribbon Commands
Skip to main content



Thứ tư, ngày 11 tháng 9 năm 2024
Chọn ngôn ngữ     English Khmer Laos Vietnamese
Ngày 10/06/2016-08:49:00 AM
1. Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Kinh tế khu vực Tam giác phát triển đã có bước tăng trưởng cao so với tốc độ tăng trưởng bình quân của mỗi nước và so với quy hoạch
Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong các năm 2008-2009, kinh tế của toàn khu vực Tam giác phát triển trong giai đoạn 2004-2009 vẫn có tốc độ tăng trưởng khá. Các tỉnh Tây Nguyên của Việt Nam trong Tam giác phát triển đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 13%/năm (tổng hợp từ số liệu thống kê các tỉnh). Xem xét trong tổng thể cả nước, giảm phần tính trùng giữa các tỉnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân khoảng 10%/năm. Các tỉnh của Campuchia và Lào cũng đạt và vượt so với dự kiến trong quy hoạch (bình quân của Lào là 7,5% và Campuchia là 9,4%). Tính chung cả khu vực Tam giác phát triển trong giai đoạn vừa qua tăng khoảng 9,5%/năm.
- Cơ cấu kinh tế của khu vực chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ.
Biểu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chỉ tiêu
Năm 2002 (QH thông qua năm 2004)
Thực hiện năm 2008
Các tỉnh của Campuchia
100
100
- Nông lâm thuỷ sản
68,6
54,0
- Công nghiệp, xây dựng
17,3
22,0
- Dịch vụ
14,1
24,0
Các tỉnh của Lào
100
100
- Nông lâm thuỷ sản
67,2
48,1
- Công nghiệp, xây dựng
19,8
23,7
- Dịch vụ
13,1
28,2
Các tỉnh của Việt Nam
100
100
- Nông lâm thuỷ sản
63,5
49,2
- Công nghiệp, xây dựng
13,4
25,6
- Dịch vụ
23,1
25,2
Tam giác phát triển (13 tỉnh)
100
100
- Nông lâm thuỷ sản
65,2
49,4
- Công nghiệp, xây dựng
14,2
25,1
- Dịch vụ
20,6
25,5
Về trình độ phát triển, năm (5) tỉnh của Việt Nam có trình độ sản xuất khá hơn, bước đầu đã hình thành sản xuất nông nghiệp hàng hoá với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu, đào lộn hột. Công nghiệp và dịch vụ cũng phát triển tương đối nhanh với một số ngành hàng có quy mô và hàm lượng công nghệ khá như công nghiệp chế biến nông lâm sản, khai thác khoáng sản và chế biến boxit, thủy điện... Dịch vụ cũng phát triển khá, nhất là xây dựng khá hoàn chỉnh mạng kết cấu hạ tầng giao thông, cấp điện, cấp nước và phát triển bưu chính viễn thông. Đã hình thành các trung tâm dịch vụ ở các thành phố, thị xã của các tỉnh, tuy nhiên trình độ công nghệ và quy mô sản xuất kinh doanh chưa cao. Bốn (4) tỉnh của Lào và 4 tỉnh của Campuchia sản xuất hàng hóa chưa phát triển, sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính tự nhiên, tự cấp, tự túc. Thương mại chưa phát triển, chỉ có một số doanh nghiệp tư nhân đảm nhận dịch vụ cung cấp nhu yếu phẩm và hàng tiêu dùng cho dân cư. Hạ tầng giao thông, cấp điện, cấp nước mới đang được đầu tư xây dựng. Dịch vụ, du lịch phát triển còn chậm so với tiềm năng.
- Điểm xuất phát còn thấp, quy mô kinh tế nhỏ bé, dẫn tới GDP bình quân đầu người của toàn khu vực Tam giác phát triển đạt 651 USD, chỉ bằng khoảng 65,9% mức bình quân chung ba nước (năm 2008). Trong đó: 4 tỉnh của Campuchia có GDP/người đạt khoảng 457 USD, bằng 60% so với bình quân chung của cả nước. 4 tỉnh của Lào có GDP/người đạt khoảng 563 USD, bằng 64,3% so với bình quân chung của cả nước. 5 tỉnh của Việt Nam có GDP/người đạt khoảng 701 USD, bằng 67,9% so với bình quân chung của cả nước.
1.2. Mạng lưới kết cấu hạ tầng
1.2.1. Mạng lưới giao thông
Một trong các thành tựu quan trọng nhất, nổi bật nhất trong thực hiện quy hoạch Tam giác phát triển, thể hiện sự hợp tác đặc biệt giữa ba nước và các địa phương là lĩnh vực xây dựng, nâng cấp mạng lưới giao thông, đặc biệt là các tuyến giao thông đường bộ.
Trên cơ sở mục tiêu trước mắt (2004-2010), với sự quan tâm đầu tư của mỗi nước, hợp tác giữa ba nước và với các nước thứ ba (Nhật Bản, Trung Quốc...) hệ thống các tuyến đường giao thông liên kết giữa các địa phương trong khu vực Tam giác phát triển ba nước, thông với cảng biển Việt Nam và các nước trong khu vực bước đầu được hình thành, làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực Tam giác ba nước
a) Các tỉnh của Campuchia
- Đường 7: Tuyến từ thủ đô Phnom Penh qua tỉnh lỵ Kratié, Stung Treng đến biên giới Lào và nối với đường 13 của Lào. Đoạn tuyến từ tỉnh lỵ Kratié qua tỉnh Stung Treng đến biên giới Lào khoảng 190 km; trong đó đoạn trong tỉnh Stung Treng khoảng 82 km. Hiện tại đường nhựa nền rộng 11 m, mặt nhựa rộng 9 m và cầu lớn qua sông Sê San tại tỉnh lỵ Stung Treng đã xây dựng xong.
- Đường 78: Tuyến xuất phát từ đường 7 tại ngã ba Ô Pong Moan, thuộc tỉnh Stung Treng, cách tỉnh lỵ Stung Treng khoảng 15 km qua Bung Lung (tỉnh Rattanakiri) đến biên giới Campuchia - Việt Nam, dài 191 km.
+ Đoạn 1: từ ngã ba Ô Pong Moan đến Ban Lung dài 121 km, hiện tại là đường cấp phối, Trung Quốc đang thi công mở rộng thành đường cấp III, 2 làn xe (tiêu chuẩn như đường 7).
+ Đoạn 2: từ Ban Lung đến biên giới Campuchia - Việt Nam dài 70 km, hiện tại Việt Nam đang thi công trải mặt nhựa khoảng 50 km, còn 20 km nữa đang tiếp tục trải mặt; đường đạt tiêu chuẩn cấp III.
- Đường 78A: Tuyến nối từ đường 78 tại Ban Lung qua Voeun Sai theo hướng đường 301 cũ đến gần sông Sêkông tại Xiêm Pang và đi dọc hướng sông Sêkông đến biên giới với Lào và nối với đường 1J của Lào, dài khoảng 150 km, trong đó có 80 km đường cấp phối và đất, còn lại 70 km nghiên cứu xây dựng mới.
- Tuyến từ tỉnh lỵ Stung Treng qua sông Mê Kông đi theo đường tỉnh hiện có và nối vào đường 12 đi Xiêm Riệp, dài khoảng 90 km đường cấp phối và đất (tạm đặt tên là đường 12B).
- Đường 76: Tuyến nối từ đường 78 cách tỉnh lỵ Rattanakiri khoảng 8 km, tuyến đi qua huyện lỵ Lum Pát (Rattanakiri), Cô Nhec (Mondulkiri), tỉnh lỵ Mondulkiri đến biên giới Việt Nam (cửa khẩu Bu Prăng), dài khoảng 192 km; trong đó đoạn từ Mondulkiri đến biên giới Việt Nam dài 27 km.
+ Đoạn nằm trong tỉnh Mondulkiri dài khoảng 127 km Trung Quốc hiện đang thi công; đã xong được 2 đoạn mặt trải nhựa dài khoảng 40 km, nền đường rộng 11 m, mặt nhựa rộng 9 m.
+ Đoạn còn lại khoảng 65 km nằm hầu hết trong tỉnh Rattanakiri, hiện tại đường cấp phối và đất chưa có dự án đầu tư xây dựng; nhưng khả năng có thể dự án trồng cao su sẽ xây dựng 28 km từ đường 78 đến Lum Pát.
- Tuyến nối tiếp từ đường tỉnh 134 tại đường 7, qua địa bàn tỉnh Kratié khoảng 47 km, địa bàn tỉnh Mondulkiri khoảng 111 km đến cửa khẩu Đăk Ruê của Việt Nam, tổng chiều dài 158 km đường cấp phối và đất (tạm đặt tên là đường 79).
- Đường 131: Tuyến xuất phát từ tỉnh lỵ Mondulkiri tuyến đi qua huyện lỵ Ô Răng (Mondulkiri) và nối vào đường 13 tại Xnuôn (tỉnh Kratié), dài khoảng 123 km; trong đó đoạn nằm trong tỉnh Mondulkiri dài khoảng 78 km, hiện tại đường đất rất khó đi.
-Tuyến mới xuất phát từ tỉnh lỵ Mondulkiri theo hướng đến cửa khẩu Đăk Pơ của Việt Nam; tuyến dài khoảng 40 km (tạm đặt tên là 131 B).
b) Các tỉnh của Lào
- Đường 18A: Tuyến đi qua 2 tỉnh Attapư và Champasak:
Tuyến nối từ đường 13 tại Phia Phay, huyện Pathumphone, tỉnh Champasak qua huyện lỵ Sa Nam Xay đến tỉnh lỵ Attapư, nối với đường 18B và đường 1I, dài 115 km. Đường hiện tại là đường đất và cấp phối, đã có kế hoạch vốn xây dựng xong năm 2012 cùng với dự án xây dựng nhà máy tuyển quặng đồng và nhôm tại huyện Sa Nam Xay tỉnh Attapư. Đường nằm trong tỉnh Champasak 30 km, Attapư 85 km.
- Đường 18B: Tuyến nằm trong tỉnh Attapư; tuyến nối từ đường 1I tại tỉnh lỵ Attapư, qua Mường Mây đến biên giới Việt Nam (cửa khẩu Bờ Y), dài 105 km. Đường hiện tại là đường nhựa, đạt cấp III và IV, 2 làn xe; khoảng 60km gần phía biên giới với Việt Nam đường cấp IV, nhiều đường cong nhỏ cần phải nâng cấp cải tạo trong những năm tới.
- Đường 1J: Tuyến nối với đường 18B từ thị trấn tỉnh lỵ Attapư, đi dọc hướng sông Sêkông đến biên giới Campuchia (tỉnh Stung Treng) dài khoảng 90 km. Hiện tại Nhật Bản mới khảo sát hướng tuyến.
- Đường 1I (đường 16 cũ): Tuyến nối từ tỉnh lỵ Attapư đến tỉnh lỵ Sêkông dài 76 km, hiện tại là đường nhựa đạt cấp III, IV hai làn xe.
- Tuyến nối từ đường 16 tại thị trấn huyện lỵ Tha Teng, tỉnh Sêkông đến tỉnh lỵ Sa La Van, dài 18 km, đang thi công, đến tháng 4 năm 2010 hoàn thành; đường đạt cấp III, IV, 2 làn xe.
- Đường 16: Tuyến đi qua 2 tỉnh Champasak và Sêkông:
Tuyến đi từ U Bon (Đông Bắc Thái Lan) qua Pắc Xế, Ba Chiềng (nối với đoạn phía nam đường 13) nối vào đường 1H, sau đó gặp đường 16B và đường 1I tại huyện lỵ La Mum. Đoạn đi từ biên giới Lào - Thái Lan tới phía nam đường 13 dài 40km, đoạn còn lại từ đường 13 tại Ba Chiềng để nối vào đường 1I tại huyện lỵ La Mum dài 136km. Tổng chiều dài đường 16 là 176km, hiện tại đường cấp III, 2 làn xe.
- Đường 16B: Tuyến nối từ đường 1I cách tỉnh lỵ Sêkông 10 km, tuyến đi qua huyện lỵ Đăk Chưng đến biên giới Việt Nam (cửa khẩu Đăk Penk - Quảng Nam - Việt Nam), dài 115 km. Tuyến hiện tại đường đất, có kinh phí của Nhật Bản cho khảo sát thiết kế cầu qua sông Sêkông và 7 km giáp biên giới Việt Nam do thủy điện Sê Ka Mản thi công. Tuyến đường sẽ nối với QL 14D, 14B ra cảng Đà Nẵng -Việt Nam.
- Đường 49A: Tuyến từ tỉnh lỵ Sêkông qua huyện lỵ Ka Lưm đến biên giới Việt Nam (cửa khẩu A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế - Việt Nam), tuyến dài 190 km, hoàn toàn bằng đất. Tuyến sẽ nối với QL49 và ra cảng Chân Mây - Việt Nam.
- Đường 13: Tuyến từ Thủ đô Viên Chăn qua các tỉnh Sa La Van, Champaksak đến biên giới tỉnh Stung Treng (Campuchia). Đoạn nằm trong tỉnh Sa La Van đến biên giới tỉnh Stung Treng (Campuchia) dài 279 km (qua tỉnh Sa La Van khoảng 75 km). Hiện tại là đường nhựa, đạt cấp III, 2 làn xe.
- Đường 1G (đường 23 cũ): Tuyến từ tỉnh lỵ Sa La Van qua huyện lỵ Tum Lan nối vào đường 9 tại Mường Phin, chiều dài 126 km. Đoạn nằm trong tỉnh Sa La Van 83 km; hiện tại mặt đường cấp phối và đất.
- Đường 15A: Tuyến nối từ đường 13 tại Không Xê Đôn (tỉnh Sa La Van)đi theo đường hiện có nối vào đường 1G cách tỉnh lỵ Sa La Van khoảng 9 km, tuyến dài 76 km; hiện tại là đường đất và cấp phối.
- Đường 15B: Tuyến từ tỉnh lỵ Sa La Van đi qua huyện lỵ Ta Oy,Samouay đến cửa khẩu La Lay của Việt Nam, dài 160 km và nối vào đường Hồ Chí Minh (Việt Nam) tại huyện Đa Krông tỉnh Quảng Trị; hiện nay toàn tuyến là đường đất và cấp phối.
c) Các tỉnh Việt Nam
Trong thời gian vừa qua, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên trong Tam giác phát triển đã và đang tập trung đầu t­ư các dự án quan trọng như­: Đường Hồ Chí Minh (QL 14), nâng cấp nhiều tuyến quốc lộ như­: 14C, 19, 24, 25, 26, 27, 28, 40. Hầu hết các tuyến đạt tiêu chuẩn cấp III, IV, V, các đoạn qua thành phố, thị xã và một số thị trấn đạt cấp II hoặc đường đô thị. Đang triển khai xây dựng đường Trường Sơn Đông, nâng cấp một số đoạn của tuyến hành lang biên giới.
Các tuyến tỉnh lộ và mạng lưới giao thông nông thôn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên cũng từng bước được cải tạo, nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2. Mạng lưới cấp điện
Phát triển nguồn và mạng lưới truyền tải, phần phối điện cũng là một trong các lĩnh vực được quan tâm của cả ba nước trong quá trình thực hiện quy hoạch tổng thể Tam giác phát triển.
- Các tỉnh Việt Nam
Trong thời gian qua, nhiều dự án quan trọng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên trong Tam giác phát triển đã đư­a vào sử dụng như­: nhà máy thủy điện Sê San 3 (260 MW), Sê San 3A (100 MW), H'Chan (12 MW), Drây H'Linh (16 MW), Sông Ba Hạ (220 MW), Preikrông (100 MW), Buôn Kướp (280 MW); Sê San 4 (360 MW), Srepok 3 (220 MW), An Khê - Kanak (173 MW), Buôn Tou Srah (86 MW)...
Đã hoàn thành các đường dây 500 KV: Đoạn Pleiku - Dốc Sỏi - Đà Nẵng mạch 2 mới, chiều dài 297 km; đoạn Pleiku - Phú Lâm mạch 2 mới, chiều dài 542 km; đoạn Pleiku - Yaly mạch kép dài 20 km nhận điện từ Nhà máy thủy điện Yaly.
Hoàn thành cải tạo lưới điện 3 thành phố Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột. Các thôn, buôn của các tỉnh Tây Nguyên trong Tam giác phát triển cũng đã được đầu tư theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho Chương trình cấp điện 1.200 thôn, buôn chưa có điện khu vực Tây Nguyên.
- Hợp tác giữa Việt Nam với Campuchia
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã ký bản ghi nhớ nghiên cứu khả thi hai dự án thuỷ điện Hạ Sê San 1/Sê San 5 công suất 90 MW nằm trên biên giới hai nước và Hạ Sê San 2 công suất 420 MW tại hạ lưu sông Sê San. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu các thủy điện khác: Hạ Srepok 2, công suất 220 MW, Hạ Se San 3, công suất 180 MW, Preak Liang 1, công suất 64 MW, Preak Liang 2, công suất 64 MW và Sam Bo (trên dòng chính sông Mê Kông với công suất có thể đến 2.000 MW).
Việt Nam sẵn sàng các điều kiện để cung cấp điện cho Campuchia qua cửa khẩu Lệ Thanh (tỉnh Gia Lai) tới các huyện O Yadao và Bar Kaeo (tỉnh Ratanakiri) theo yêu cầu của Campuchia.
- Các tỉnh của Lào và hợp tác giữa Việt Nam với Lào
Mạng lưới truyền tải điện tới các vùng nông thôn được mở rộng. Thêm vào đó, việc phát triển thủy điện đang được tiến hành như: các dự án Sêkông 3, 4, 5, Sesaman 4, Dakameun, Huaylumphan, Sepon 3, Huayphoh, Sesanam 1, Namkong 1 và đập Sepien-Senumnoi đang được khảo sát và thiết kế. Đập Namkong 1được ưu tiên và dự kiến bắt đầu xây dựng trong năm nay. Dự án Seset 2 đang xây dựng.
Việt Nam đang đầu tư xây dựng Thuỷ điện Sêkamản-3 (260 MW), dự kiến hoàn thành vào năm 2010, đấu nối vào hệ thống điện Việt Nam bằng đường dây 220 kV Sekaman 3 - TBA 220 kV Thạch Mỹ; đã ký MOU chuẩn bị điều kiện để khởi công Thuỷ điện Sêkamản-1 (450 MW), Sêkamản-4 (200 MW), Dak Y-Mơn. Tiếp tục nghiên cứu thuỷ điện Sêkamản-0 và một số thuỷ điện khác.
Hệ thống liên kết cung cấp điện bằng đường dây 22 KV cho Lào từ cửa khẩu Bờ Y, tỉnh Kon Tum tới vùng biên giới tỉnh Attapư, từ cửa khẩu La Lay đến huyện lỵ Ka-le-um, tỉnh Sêkông đang hoạt động có hiệu quả.
Tỉnh Bình Phước đó đầu tư các tuyến đường dây tải điện từ huyện Lộc Ninh đến trung tâm huyện Snoul, tỉnh Kratíe và tuyến từ huyện Bù Đốp đến trung tâm huyện Keosima, tỉnh Mondulkiri và đó bỏn điện ổn định với mức tiêu thụ 200.000 kwh/thỏng cho 02 tỉnh Mondulkiri và Kratié. Ngoài ra, tỉnh đó hỗ trợ đầu tư xây dựng đường điện Hoa Lư - Snoul và đường điện Hoàng Diệu - Keosima.
1.3. Nông nghiệp
Một trong những lĩnh vực phát triển nhanh hơn so với mục tiêu đề ra trong quy hoạch 2004 là lĩnh vực hợp tác trồng cây công nghiệp dài ngày.
Chỉ tính riêng cây cao su, đến nay các doanh nghiệp của các tỉnh Tây Nguyên đã được phía Lào cấp phép trên 26.700 ha (trong đó đã trồng trên 16 nghìn ha), phía Campuchia cấp phép trên 22.800 ha (trong đó đã trồng trên 2 nghìn ha) và chuẩn bịcấp thêm 42.000 ha.
Hiện nay tại Mondulkiri các doanh nghiệp của Việt Nam đang tiếp tục triển khai các Dự án xây dựng văn phòng và Trung tâm thương mại cao su tại tỉnh lỵ Mondulkiri; triển khai tập huấn trồng cây lương thực, cây điều và tổ chức mô hình trồng thử nghiệm 1.200 cây cao su tại Pech Chăn Đa. Tổ chức đào tạo thợ lái máy nông nghiệp, đào tạo kỹ thuật trồng, chăm sóc cao su cho con em cán bộ và nhân dân trong vùng dự án tại các tỉnh Salavan và Attapư (Lào).
1.4. Thương mại và kinh tế cửa khẩu
Nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại, nhiều chính sách ưu đãi đã được áp dụng như Việt Nam đang áp dụng chính sách ưu đãi giảm thuế suất thuế nhập khẩu tới 0% cho 40 mặt hàng của Campuchia (trừ mặt hàng lá thuốc lá được áp dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu) và thoả thuận áp dụng ưu đãi giảm thuế suất thuế nhập khẩu 0% và 50% đối với các mặt hàng có xuất sứ (CO) từ mỗi nước với Lào.
Ưu tiên miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nông sản chưa qua chế biến do các doanh nghiệp Việt Nam hỗ trợ đầu tư, trồng tại các tỉnh của Campuchia giáp biên giới Việt Nam nhập khẩu để làm nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam.
Với các chính sách ưu đãi nêu trên, kim ngạch xuất khẩu hai chiều giữa Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia đang tiếp tục phát triển nhanh chóng, cơ cấu hàng hóa đã có chuyển biến tích cực, đã hình thành những nhóm hàng với số lượng ngày càng tăng và chất lượng ngày càng tốt hơn.
Các chợ thuộc các huyện, xã biên giới được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Đến nay, tại khu vực Tam giác phát triển phía Việt Nam có bốn chợ biên giới và chợ cửa khẩu phục vụ trao đổi hàng hoá và buôn bán tiểu ngạch của cư dân hai bên. Việt Nam cũng đã giúp Campuchia xây dựng chợ biên giới O Yadao (tỉnh Ratanakiri) đi vào hoạt động vào cuối năm 2006.
Phía Việt Nam đang tiến hành xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Đường 19 tại tỉnh Gia Lai, Khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y tại tỉnh Kon Tum, khu kinh tế cửa khẩu Hoa Lư tỉnh Bình Phước.
1.5. Công nghiệp
Hợp tác đầu tư trong Tam giác phát triển được đẩy mạnh.Các dự án đầu tư lớn đã và đang được triển khai trong các lĩnh vực thủy điện (đã trình bày ở phần kết cấu hạ tầng), hợp tác tìm kiếm, khai thác và chế biến khoáng sản, chế biến các cây công nghiệp có giá trị cao.
- Hợp tác Việt Nam với Lào
Hiện nay, Việt Nam đã cấp nhiều giấy phép đầu tư sản xuất công nghiệp và công nghiệp chế biến­ vào các tỉnh của Lào thuộc khu vực Tam giác phát triển bao gồm các dự án khai khoáng, chế biến gỗ và sản xuất đồ dùng gia dụng, trồng và chế biến nông sản, mủ cao su, sản xuất phân bón hoá học.
Trong lĩnh vực khoáng sản, bằng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của Việt Nam,Dự án “Điều tra, đánh giá khoáng sản bauxit và các khoáng sản khác vùng Nam Lào” được triển khai trong 3 năm (2004-2007) trên diện tích khoảng 30.000 km2 và đã phát hiện được một số khoáng sản và gần 300 km2 diện tích có triển vọng công nghiệp về quặng bauxit thuộc hai tỉnh Se Kông và Attapư.
Hiện nay đã có các dự án khảo sát, thăm dò bauxit tại tỉnh Attap­ư và tỉnh Sê Kông đã được chấp thuận và ký MOU với chính phủ Lào (Dự án khảo sát, thăm dò Bouxit tại Đăk Pok, Xan xay, Attapư của Tập đoàn Đầu tư Việt Phương) hoặc ký hợp đồng thành lập Công ty liên doanh với Lào (Tập đoàn TKV và Công ty Phát triển kinh tế Lào Lanexang liên doanh thành lập Công ty phát triển công nghiệp Sê Kông khảo sát, thăm do bauxit tại Thà Tèng, Sê Kông). Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng dự kiến đầu tư thăm dò, khai thác than tại Salavan và đầu tư tổ hợp than - điện.
Trong lĩnh vực chế biến, xu thế đầu tư khai thác chế biến gỗ là chủ đạo của các doanh nghiệp Việt Nam trước đây được thay thế bằng đầu tư chế biến sản phẩm cây công nghiệp có giá trị cao, gắn với việc đầu tư vùng nguyên liệu.
- Hợp tác Việt Nam với Campuchia
Hai bên Việt Nam và Campuchia đã nhất trí xây dựng Dự án “Lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 vùng Đông Bắc Campuchia và vùng biên giới giáp Việt Nam” trong phạm vi khu vực Tam giác phát triển CLV (phần lãnh thổ Campuchia) bằng nguồn vốn viện trợ của Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các tỉnh thuộc khu vực Tam giác phát triển của Campuchia, hợp tác đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp còn rất khiêm tốn, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực khai thác khoáng sản (và thuỷ điện sẽ trình bầy ở phần sau). Trong đó, VINACOMIN đã thành lập Công ty liên doanh thăm dò và khai thác quặng sắt tại Stung Treng; ký thoả thuận thăm dò, khai thác khoáng sản kim loại sắt ở Anlong Chrey và Anlong Phe thuộc tỉnh Stung Treng. Tỉnh Đắk Lắk dự kiến sẽ phối hợp với tỉnh Mondulkiri tổ chức khảo sát xác định vị trí và lập dự án đầu tư khai thác khoáng sản và vật liệu xây dựng tại tỉnh Mondulkiri như đá granit, đá xây dựng, sét gạch ngói...
1.6. Các lĩnh vực xã hội
- Hợp tác phát triển nguồn nhân lực và các lĩnh vực xã hội, môi trường được tăng cường
Phía Việt Nam đã giúp hình thành cơ bản hệ thống trường dạy nghề tại các tỉnh Sêkông của Lào, Ratanakiri và Mundulkiri của Campuchia. Tỉnh Gia Lai đầu tư cho tỉnh Attapư (Lào) Trường Tiểu học 8 phòng học (2 tầng), cho tỉnh Rattanakiri (Campuchia) Trường Dân tộc nội trú Ban Lung. Tỉnh Đăk Nông đã đầu tư Trường phổ thông dạy nghề tại thị xã Senmonorum, tỉnh Mondulkiri (sắp hoàn thành). Tỉnh Đăk Lăk đã xây dựng hoàn thành ký túc xá quy mô 100 giường dành cho sinh viên hai nước Campuchia và Lào tại Trường Đại học Tây Nguyên. Tỉnh Gia Lai sẽ tổ chức đào tạo cho bạn Lào 20 học sinh trong thời gian 02 năm; giai đoạn 1 (1 năm): đào tạo tiếng, giai đoạn 2 (1 năm): đào tạo nghề.
Tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đăk Nông dã thực hiện việc hỗ trợ điều trị miễn phí cho một số bệnh nhân nghèo tỉnh Mondulkiri. Đồng thời, tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức các đoàn y tế giúp tỉnh Mondulkiri khảo sát, điều tra về dịch bệnh.
Hiện nay tỉnh Gia Lai đang triển khai thi công xây dựng bệnh viện khu vực tạihuyện Đức Cơ, dự kiến năm 2010 sẽ hoàn thành đưa vào sử dụng với quy mô 100 giường bệnh. Bệnh viện khu vực huyện Đức Cơ sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng sẽ phục vụ cho cả các tỉnh biên giới Campuchia, Lào./.
    Tổng số lượt xem: 1129
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
  

Trang thông tin điện tử Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam
Bản quyền thuộc về Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Địa chỉ: số 6B Hoàng Diệu, quận Ba Đình, Hà Nội • Điện thoại: 08043485; (Phòng Hành chính - Văn phòng Bộ 024.38455298) ; Fax: 08044802; (Phòng Hành chính - Văn phòng Bộ 024.38234453 )Email: banbientap@mpi.gov.vn